Hôm nay,  

Lãng Phí Trong Đầu Tư

11/18/200300:00:00(View: 15634)
Hôm 17-11, báo chí VN cho biết theo giới chức đầu tư của Bộ Tài chính, việc đầu tư và xây dựng cơ bản trong khu vực kinh tế nhà nước thất thoát từ 20 đến 25 ngàn tỷ đồng mỗi năm, một con số rất lớn so với tổng sản lượng hàng năm của toàn dân.
Dưới đây là bài của đài RFA trao đổi với Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về hiện tượng trên.
Hỏi: Thưa ông, tin tức báo chí trong nước vừa nói về việc đầu tư và xây dựng cơ bản thì nhà nước bị thất thoát mỗi năm từ 20 đến 25 ngàn tỷ đồng. Ông nghĩ sao về điều đó"
-- Đầu tiên là một sự vui mừng, vì thứ nhất đã có giới chức nhà nước đề cập đến tệ nạn này, thứ hai, đã có báo chí dám nói đến sự phê phán đó. Trước đây, chỉ có dân gian nói ra và nói xong thì bị phiền nhiễu, thậm chí hoạn nạn. Đó là nhận xét sơ khởi về hệ thống báo động và tôi xin được nhắc lại nhận xét của một kinh tế gia gốc Ấn Độ, ông Amartya Sen, giải Nobel về Kinh tế năm 1998, là trong các xã hội có tự do báo chí, ta không có nạn đói vì nguy cơ bị đói được báo chí tức thời đề cập khiến nhà nuớc không thể không có biện pháp đối phó. Cho nên, không thể có phát triển kinh tế đồng bộ và bền vững nếu không có tự do thông tin. Đó là nhận xét thứ nhất. Nhận xét thứ hai là về kích thước của vấn đề. Do báo cáo của cơ chế có thẩm quyền là Bộ Tài chính, nạn thất thoát hay lãng phí đầu tư trong khu vực tư nhân hay đầu tư trực tiếp của nước ngoài thì rất ít hoặc không có. Đấy nhờ là quy luật kinh tế gọi là “của đau con xót”, ngược lại, vấn đề nằm trong khu vực nhà nước. Tại Việt Nam ngày nay, khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm lĩnh vai trò chủ đạo vì cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Phần đầu tư của khu vực này, thuộc nhiều cấp độ và thẩm quyền, vẫn được coi là động lực chính của tăng trưởng kinh tế theo những ưu tiên mơ hồ của chính phủ hay của đảng cầm quyền và lãnh đạo. Trong ngân khoản đầu tư đó thì đầu tư và xây dựng cơ bản chỉ là một phần thôi. Vậy mà số lượng thất thoát hay lãng phí được chính thức xác định bởi Vụ Đầu tư của Bộ Tài chính lại lên đến từ 20 đến 25 ngàn tỷ đồng Việt Nam thì ta phải giật mình vì lên tới 30% kim ngạch đầu tư của khu vực nhà nước. Quy ra đô la theo hối suất hiện hành thì khoản mất mát đó lên tới bình quân là 5% tổng sản lượng hàng năm của quốc dân. Nếu kinh tế quốc dân hàng năm tăng thêm được 7% thì 5%, tức là hơn 70% số đó, bị mất vào tay một số kẻ thừa hành trong bộ máy nhà nước. Sự mất mát đó khiến cho một thiểu số có thể làm giàu bất chính trên lưng đa số nghèo túng và đây là nghịch lý nếu so với cái gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hỏi: Đi vào chi tiết, thưa ông, vì sao lại có nạn thất thoát đó"
-- Về các nguyên do thì ta phải phân biệt hai lãnh vực. Thứ nhất là về kỹ thuật quản trị ngân sách quốc gia; vì thiếu mạch lạc về ưu tiên và thiếu chặt chẽ trong thông tin nên dự án thực hiện không sát mục tiêu, gây lãng phí về tài nguyên và cơ hội, đáng lẽ dùng vào việc này thì có hiệu quả kinh tế hay xã hội cao hơn là vào việc khác. Lãnh vực đó có thể cải tiến nếu người ta muốn và nhất là chấp nhận nguyên tắc “phàm cái gì dân làm được thì nhà nước đừng làm để khỏi cạnh tranh”, với năng suất vốn dĩ là thấp hơn tư doanh. Khốn nỗi, và đây ta đụng vào lãnh vực thứ hai, là cơ chế chính trị và luật pháp bất toàn gây ra không chỉ lãng phí mà thực tế là thất thoát, nôm na là sang đoạt bất hợp pháp. Ai có thể làm nổi việc chiếm đoạt ấy nếu không có liên hệ đến nhà nước" Nạn thất thoát xảy ra ở tất cả các khâu, các chặng, của việc đầu tư, từ trù hoạch hay quy hoạch đến xác định chủ trương đầu tư, soạn thảo dự án, thẩm xét giá trị kinh tế hay xã hội của dự án, đến phê duyệt, giải phóng mặt bằng và tái định cư dân chúng bị chuyển dịch nếu liên hệ đến đất đai, rồi thủ tục đấu thầu, thực hiện, thanh toán và kiểm tra tiến độ thực hiện công trình. Những chi tiết này vừa được nêu ra, với rất nhiều thí dụ cụ thể mà dân trong nước từng nơi đều có thể đã phong thanh nghe nói đến. Trong hai lãnh vực gây vấn đề thì phần kỹ thuật quản trị ngân sách và dự án đã được các nước hay cơ quan cấp viện chú ý, khuyến cáo và viện trợ khá nhiều về cả tài chính và kỹ thuật để khắc phục. Lãnh vực cơ chế lại là nơi khó xử lý nhất vì đụng vào quyền lực. Mà quyền lực càng cao, dự án càng lớn thì tỷ lệ thất thoát càng nhiều vì trách nhiệm càng nhỏ về cả hành chính, hình sự hay chính trị.
Hỏi: Xin ông đơn cử cho một số thí dụ về hiện tượng này.

-- Thí dụ thì có rất nhiều, từ Bắc vào Nam đều có. Như vụ xây dựng đường liên tỉnh 15 với Chủ đầu tư là Công ty Đầu tư và Phát triển Hạ tầng Cơ sở. Họ đầu tư theo thể thức BOT (build,-operate-transfer) là xây dựng, điều hành và chuyển giao. Vốn đầu tư ban đầu là hơn 99 tỷ đồng, sau được phù phép thổi hai lần thành gần 199 tỷ, làm Ủy ban Nhân dân thành phố Sàigon kêu trời là có sai phạm nghiêm trọng gây thất thoát đến mươi tỷ. Vụ ông Bùi Xuân Trường, nguyên Giám đốc Xí nghiệp Xây dựng Công trình Giao thông của Bộ Giao thông Vận tải đã rút tiền chi sai nguyên tắc đến 26 tỷ đồng. Nổi tiếng nhất trong dư luận là vụ bà Lã Thị Kim Oanh đang ra tòa vì đã tham ô gần 83 tỷ đồng trong chức vụ Giám đốc Công ty Tiếp thị Đầu tư Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn, số tiền đó là hơn năm triệu đô la, trong một xứ mà lợi tức cả năm của dân cư chưa lên đến 400 đô la một người. Cũng bộ Giao thông và Vận tải, là chủ đầu tư của dự án xây cầu Hoàng Long và cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa, đã không tiến hành việc thẩm định dự án cho đầy đủ và chặt chẽ nên vốn đầu tư tăng từ hơn 83 tỷ lên tới hơn 224 tỷ đồng.
Hỏi: Bây giờ, sau khi tìm hiểu về nguyên do và kích thước vấn đề, xin hãy nói qua về lối xử lý. Nếu ông cho rằng vấn đề chính thuộc lãnh vực cơ chế, người ta sẽ xử lý ra sao"
-- Vấn đề cơ chế đó thuộc phạm vi “văn hóa xã hội chủ nghĩa”, xin tạm gọi là “cha chung không ai khóc” của thời bao cấp, và được duy trì cho đến nay vì cái chủ trương chính trị gọi là “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đất nước là của toàn dân, cũng như đất đai theo định nghĩa chính thức hiện hành, nhưng lại “do nhà nước thống nhất quản lý”, cũng theo định nghĩa chính thức. Nghị quyết xác định ưu tiên, nhà nước soạn thảo dự án căn cứ trên lắm ưu tiên chính trị vu vơ mà không ai dám nêu thành vấn đề, điển hình là dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất. Sau đó, nhà nước thẩm định rồi phê duyệt dự án, làm chuẩn chi viên kiêm thanh toán viên lẫn giám sát và quyết toán sổ sách rồi trấn an nhau bằng nguyên tắc “hậu kiểm”. Có khi dự án đưa vào sử dụng từ một hai năm rồi mà chưa có cơ quan phê duyệt báo cáo quyết toán. Nhà nước mà bao biện như vậy tất nhiên gây thất thoát tài sản quốc dân, ở đâu cũng thế mà thôi.
Hỏi: Tức là với cơ chế chính trị hiện nay,nạn lãng phí hay thất thoát đó sẽ còn tiếp tục"
-- Cơ bản là như vậy. Trong khi chờ đợi, người ta có thể khắc phục được một số khó khăn để dân chúng khỏi bất mãn bằng cách tăng cường khả năng giám sát của một số cơ chế độc lập, thí dụ cao cấp nhất là Quốc hội, nếu cơ chế này dám đảm nhận trách nhiệm độc lập, là điều vẫn rất khó. Nếu không, thì vẫn chỉ là tay phải ngăn tay trái của cùng một cơ thể là đừng “dĩ công vi tư”. Thói thường, người ta làm gì cũng biết so sánh lợi ích kinh tế với rủi ro bị trừng phạt khi vi phạm luật lệ. Nếu thấy rủi ro không đáng kể vì ta được cơ chế chính trị bảo vệ thì bất cứ ai ngồi vào vị trí có “định hướng” đó đều có thể bị cám dỗ.
Hỏi: Ông nhiều lần nói đến “định hướng xã hội chủ nghĩa” như một nguyên nhân của tệ tham ô lãng phí. Xin ông tổng kết cho buổi trao đổi hôm nay về vấn đề này.
-- Trung tuần tháng 10 vừa qua, tại Bắc Kinh, đã có một hội nghị trao đổi giữa các nhà lý luận Việt Nam và Trung Quốc về khái niệm hay phạm trù này, tạm gọi là “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” hay “xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa” nói theo lối Trung Quốc, hoặc “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, là lối nói của lãnh đạo Việt Nam. Thực chất thì không ai xác định được nội dung của những khái niệm đó ra sao, ngoài một số nhà lý luận, vốn sống tách rời khỏi đời sống dân sinh và được gọi ra chứng minh rằng lãnh đạo có nói trắng hay đen gì thì vẫn có lý. Họ như các quan Thái sử hay Chiêm bốc thời phong kiến đã nhân danh những vận hành mơ hồ của thiên nhiên vạn vật hay Thiên mệnh để tâu bày rằng Hoàng đế luôn luôn có lý. Những lý luận theo lối viện dẫn Karl Marx hay Lenin đều chỉ là phần biện bác của các quan thái bốc hiện đại. Tuy nhiên, vượt ra khỏi mâu thuẫn của lối trói voi bỏ giọ hoặc chứng tỏ hình tròn có bốn góc như vậy, ta có thể nói “định hướng xã hội” của một chính quyền là quan tâm đến đa số, nhất là những kẻ thất thế trong xã hội, và giải trừ mọi thế lực độc quyền của những kẻ có tiền hay có quyền, hầu kết quả của phát triển được phân phối đồng đều hơn cho đa số. Và, quan trọng hơn hết, người ta không thể chống lại quy luật thị trường, hoặc đưa nhà nước lên thành cơ chế trấn áp thị trường, nhân danh xã hội chủ nghĩa hay nhân danh bất cứ điều gì. Làm như vậy, nhà nước dễ là công cụ của một thiểu số có tư thế an toàn nhất để chiếm đoạt tài sản công cộng mà không sợ bị trừng phạt. Từ mấy năm cuối của thập kỷ 60, một số nước Đông Âu, điển hình là Hungary, đã cố tìm ra hình tròn bốn góc bằng phạm trù “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” mà không xong, và cuối cùng thì chế độ cộng sản bao cấp tại đấy cũng tan tành. Bốn mươi năm sau mà Việt Nam còn loay hoay trong vòng lý luận đó thì không nên ngạc nhiên vì sao xứ sở chậm tiến. Kinh tế có tăng trưởng 7% mà 70% của số đó lại tuột vào tay một thiểu số thân cận với đảng và nhà nước thì rõ là người ta đùa cợt với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ: “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.