Hôm nay,  

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Hãy Bớt Ác Với Dân Đi Đã

24/04/202317:26:00(Xem: 4020)

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến


tnt 1

Khoảng thời điểm này, vào hai năm trước, chính xác là hôm 30 tháng 4 năm 2021, báo Sài Gòn Nhỏ có thiên phóng sự (“Đi Tìm Nhân Vật Trong Bức Ảnh Lịch Sử”) của Tuấn Khanh, với phần dẫn nhập như sau:
     “Những ai đã từng nhìn qua những hình ảnh về cuộc chiến tranh Việt Nam, chắc cũng có lúc đã bắt gặp hình ảnh một người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đang bị thương tật, bị đuổi ra nơi chữa trị của mình là Tổng Y Viện Việt Nam Cộng Hòa vào chiều ngày 30–4. Tấm hình nhỏ không có nhiều sự thuyết minh nhưng chỉ với ánh mắt của người thanh niên đau đớn, mệt mỏi đang chống nạng bước đi, đã là sự ám ảnh không lời đến tận cùng.
     Trong bộ quân phục có vẻ mặc vào vội vã, anh lính VNCH đó bước đi và lọt vào khung hình, trở thành một dữ liệu giằng xé im lặng, như một vết thương không bao giờ lành về một câu chuyện có thật: Những người thương bệnh binh bị chĩa súng, đuổi ra đường, ngay sau khi quân bộ đội Bắc Việt tràn vào Sài Gòn. Nhiều năm trôi qua, người ta vẫn tự hỏi, người lính ấy còn sống không, giờ này người đàn ông ấy ra sao?” 
     Gần hai năm sau, cũng trên Sài Gòn Nhỏ (số phát hành hôm 6 tháng 3 năm 2023) nhà báo Y Nguyên cho biết:
     “Cựu quân nhân VNCH Võ Phùng Dương đã qua đời do tuổi già sức yếu, một phần những di chứng chiến tranh đi kèm lao động nặng nhọc suốt một thời gian dài. Ông Võ Phùng Dương là nhân vật trong bức ảnh lịch sử về người thương binh VNCH đang chữa trị ở Tổng Y Viện Sài Gòn, đã phải chống nạng và dìu đồng đội thương tật nặng hơn mình bước ra sau khi quân Bắc Việt tràn vào, đuổi hết mọi người ra ngoài, kể cả những người đang mổ giữa chừng.”

tnt 2
Chĩa súng đuổi thương bệnh binh của phe bại trận ra khỏi quân y viện, kể cả “những người đang mổ giữa chừng”, chỉ là phản ứng cá nhân của vài anh bộ đội (đang say men chiến thắng) hay là đường lối, chủ trương, chính sách của bên thắng cuộc?
     Câu trả lời có thể tìm được qua những con số tương đối khả tín, và khả xác này:
   – acqueline Desbarats and Karl Jackson (“Vietnam 1975–1982: The Cruel Peace”, in The Washington Quarterly, Fall 1985) estimated that there had been around 65,000 executions. This number is repeated in the Sept. 1985 Dept. of State Bulletin article on Vietnam.
     – Northwest Asian Weekly (5 July 1996): 150,000 –175,000 camp prisoners unaccounted for.
     – Orange County Register (29 April 2001): 1 million sent to camps and 165,000 died.
     Năm 1975, một triệu người vào tù – một trăm sáu mươi ngàn không bao giờ trở lại, và lắm kẻ bị giam mãi đến 1993 (18 năm trường, dù chương trình “cải tạo” được hứa hẹn chỉ kéo dài độ mười ngày) thì biết bao nhiêu gia đình tan nát giữa lúc “Nam/Bắc hoà lời ca?”
     Mà không chỉ đám ngụy quân, ngụy quyền (hay đám ngụy dân) mới bị gạt ra ngoài  bản hòa ca Bắc/Nam đâu. Tuy chiến tranh đã chấm dứt nhưng hòa bình, xem ra, cũng không được an bình gì cho lắm. Đời sống của phần lớn mọi người bỗng trở nên khó khăn, khó thở, và xáo trộn “như một bầy ong vỡ tổ”, theo lời của FB Mai Thị Mùi:
     “Đất nước thống nhất nhưng cuộc sống người dân như bầy ong vỡ tổ. Người ta lăn xả ra đường tìm kế sinh nhai, bán, buôn, đổi chác tất cả những gì có thể. Hàng hoá thiếu thốn, ngăn sông cấm chợ, quy định, luật lệ lộn tùng phèo tạo nên một xã hội xô bồ mạnh ai nấy buôn, mạnh ai nấy bán. Không khí đất nước những năm tháng ấy như căn phòng đóng kín cả cửa đi lẫn cửa sổ. Nó ngột ngạt, tù túng như vây hãm con người ta trong ngục tù.”
     Thế là dân Việt ào ạt cùng nhau “vượt ngục” và đã tạo nên những làn sóng vượt biên, kéo dài đến mấy thập niên, khiến cho kho tàng ngôn ngữ nhân loại có thêm một từ ngữ mới: boat people – thuyền nhân! Họ thuộc “thành phần bất hảo, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, cặn bã của xã hội, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” như nguyên văn lời giải thích của giới lãnh đạo VN trước dư luận thế giới, và với lũ cột đèn (còn) kẹt lại.

tnt 3
Không hiểu những thuyền nhân Việt Nam đã hành nghề ma cô, đĩ điếm ,và tổ chức trộm cướp ra sao nơi đất lạ quê người chỉ thấy số lượng bơ thừa sữa cặn mà họ gửi về cố hương đã cứu toàn dân (cũng như toàn Đảng) thoát chết đói nhiều phen. Từ đó, nhà đương cuộc Hà Nội bèn đổi mới tư duy và cũng bắt đầu… đổi giọng. 
     Những kẻ  phản bội tổ quốc không những đều được “khoan hồng” mà còn được  vinh danh như “những sứ giả Lạc Hồng,” và (bỗng) trở thành “một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc,”  hay “là cầu nối phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước trên thế giới.
     Nghị Quyết 36 về “Công Tác Đối Với Người Việt Nam Ở Nuớc Ngoài” ra đời (vào ngày 26 tháng 03 năm 2004) để thực hiện đường lối và chủ trương mới của Đảng và Nhà Nước về những khúc ruột xa ngàn dặm này. Tuy là một văn bản khá dài (3.791 từ) nhưng không có một chữ nào, nửa chữ cũng không, đề cập đến nguyên do sự có mặt của vài triệu nguời Việt đang tứ tán khắp năm Châu cả. Cứ như thể là khi khổng khi không họ (bỗng) từ trên trời rơi xuống vậy.
     Tuy thiếu đầu hở đuôi thấy rõ nhưng N.Q 36 vẫn nhận được mấy tiếng vỗ tay (lác đác) của vài ba nhân vật tên tuổi:
     – Phạm Duy : “Đó là một cách đưa tay ra với những người thua trận.”
     – Nguyễn Cao Kỳ: “Tôi sẽ nói rằng tôi đã tận mắt chứng kiến những thay đổi lớn lao của đất nước. Nói để cho họ hiểu rằng đừng có ngoái cổ mà nhìn lại quá khứ nữa. Cũng đừng có cay cú, cay đắng, chua chát mà làm gì, hãy xóa đi dị biệt hướng tới tương đồng để mà cùng nhau xây dựng đất nước.”
      – Nguyễn Đăng Hưng: “Nếu nghị quyết được thực hiện tốt, nó sẽ có sức công phá rất lớn và nó sẽ tạo ra sự ràng buộc, gắn kết chặt chẽ giữa những người cùng một nước, bất chấp khoảng cách về thời gian, không gian. Tôi đang chờ ở khâu thực hiện vì hiện nay theo tôi biết, từ khi nghị quyết này được ban hành, có nhiều con tim đã vui trở lại.”
     Nay thì tướng Nguyễn Cao Kỳ và nhạc sỹ Phạm Duy đã mồ yên mả đẹp (hy vọng thế) T.S Nguyễn Đăng Hưng tuy còn tại thế nhưng “con tim” đã không “vui trở lại,” như mong đợi. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho thông tín viên Diễm Thi (RFA) vào hôm 30 tháng 10 năm 2021, ông tâm sự :
     “Tôi buồn lắm và tôi quyết định là không nói gì nữa. Mà nói thiệt, báo chí Việt Nam giờ không dám hỏi tôi đâu. Hình như có một cái lệnh đâu đó bằng miệng là đừng để ông Hưng xuất hiện trên đài nữa. Tôi là người tha hương trên đất nước tôi!”
     Sao lại ra nông nỗi thế, hả Trời?
     Một vị trí thức khoa bảng sau hơn 40 năm học tập và nghiên cứu khoa học ở ngoại quốc, tình nguyện trở về giúp quê hương (và “đã vận động hàng triệu USD tài trợ cho công tác đào tạo nhân tài nước Việt”) mà còn bị bịt mồm bịt miệng, và vẫn cảm thấy lạc lõng trên đất nước thì vấn đề hòa giải với chế độ hiện hành rõ ràng là vô cùng nan giải (nói chi đến chuyện hòa hợp) với bất cứ ai!
     Một vị T.S khác, ông Nghè Mạc Văn Trang, người suốt đời sinh sống và làm việc trong nước (một kẻ ở trong chăn) nên đã “đề xuất” một “phương án” giản dị, thực tiễn, và dễ dàng thực hiện hơn nhiều: “Bớt ác với dân đi.”
     Vâng! Đúng thế: cứ hãy bớt ác với dân trong nước cái đã!
     Đừng tiếp tục cướp bóc đất đai của thiên hạ nữa. Tiếng kêu của “dân oan” VN đã vang lên đến thấu Trời rồi.
     Ngưng khai thác sức lao động của những người già cả neo đơn, những kẻ khuyết tật không nơi nương tựa, và những đứa bé côi cút đang phải sống dở (chết dở) với những xấp vé số trên tay ... đi. Những phần tử thua thiệt và bất hạnh này cần được bảo bọc, trợ giúp thay vì bị bóc lột như hiện cảnh.
     Xin đừng tiếp tục kỳ thị những nhóm dân bản địa nữa. Ngoài bờ biển phía Đông, biên giới phía Tây và phía Bắc VN đều là nơi cư trú ngàn xưa của nhiều nhóm người này. Họ chính là tuyến đầu của tổ quốc khi hữu sự. Cũng chính họ, với cuộc sống đơn giản và hài hoà với thiên nhiên, đã tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước và giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng. Ngược đãi những con dân bản địa không chỉ thể hiện sự bất nhân/bạc ác mà còn chứng tỏ một tầm nhìn hạn hẹp và ... ngu xuẩn nữa.
     Cũng thôi đừng đập phá nghĩa trang và bia mộ của những kẻ thuộc bên thua cuộc nữa. Trút hận thù lên ngay cả những nấm mồ của người đã chết thì làm sao với tay đến được thân nhân của họ, những khúc ruột xa, ở tận nước ngoài?

– Tưởng Năng Tiến

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.