Hôm nay,  

Chiến tranh Nga và nền kinh tế toàn cầu

07/03/202223:01:00(Xem: 1735)

Bình luận:

world


Lời người dịch: Khác hẳn với các ảnh hưởng của nạn COVID-19 lên nền kinh tế toàn cầu, kể từ cuối năm 2021, giá dầu thô đã tăng, nhưng ngay sau khi Nga xâm lược Ukraine, giá đã tăng khoảng 1/3. 
Cuộc tranh luận hiện nay của chính giới về việc ngừng nhập năng lượng do Nga cung cấp đang gây nhiều biến động lên thị trường chứng khoán và khiến giá dầu tăng nhanh lên mức cao nhất kể từ năm 2008.

 

Trong phiên giao dịch đầu tuần này, giá một thùng dầu tăng lên gần 18%, 139,13 đô la Mỹ và do đó gần với mức kỷ lục gần 150 đô la Mỹ trong mùa hè năm 2008. Hiện nay, giá dầu Brent mới nhất đã tăng lên gần 11% tương đương 12,57 đô la Mỹ, 130,67 đô cho một thùng. Vì lo sợ chiến cuộc sẽ leo thang hơn, nên Mỹ đang thảo luận với các đồng minh châu Âu về khả năng cấm nhập khẩu dầu từ Nga. Các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc hơn cho Nga đang xúc tiến.

 

Thị trường chứng khoán châu Âu cũng chịu áp lực nặng nề do những thông báo này. Chỉ số hàng đầu của thị trường chứng khoán Đức, đạt mức cao kỷ lục khoảng 16.290 điểm vào tháng 11 năm ngoái, hiện nay đã giảm xuống còn 13.000 điểm và có thể đi xuống thấp hơn trong thời gian tới. Chính phủ Đức đã tỏ ra phản ứng thận trọng khi từ chối yêu cầu tẩy chay vì lo sợ tình trạng khan hiếm và lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.

 

Tóm lại, các nhận định của Nouriel Roubini trong bản dịch sau đây là bi quan, nhưng các ảnh hưởng của chiến tranh Ukraine cho nền kinh tế toàn cầu sẽ còn có những hiệu ứng càng khó lường đoán và gây nguy hại hơn.  


*

Thật là hấp dẫn khi nghĩ rằng cuộc chiến ở Ukraine sẽ chỉ có một tác động kinh tế và tài chính nhỏ trên toàn cầu, vì Nga chỉ chiếm có 3% trong nền kinh tế thế giới. Nhưng các nhà hoạch định chính sách và các nhà phân tích tài chính cần tránh những ước vọng như vậy.

Vào cuối tháng 12, tôi đã cảnh báo rằng  rằng năm 2022 sẽ khó khăn hơn nhiều so với năm 2021 - một năm mà các thị trường và các nền kinh tế trên toàn thế giới nhìn chung là tốt, với tăng trưởng vượt lên trên tiềm năng sau cuộc suy thoái lan tràn vào năm 2020. Trước thềm năm mới, rõ ràng là sự gia tăng lạm phát sẽ không chỉ là tạm thời, mà virus corona luôn biến thể sẽ tiếp tục gieo rắc tình trạng bất trắc trên toàn thế giới và những rủi ro về địa chính trị lờ mờ đang trở nên nghiêm trọng hơn. Đầu tiên trong số ba mối đe dọa địa chính trị mà tôi đã đề cập là việc Tổng thống Nga Vladimir Putin cho tập trung quân đội gần biên giới Ukraine. 

Sau hai tháng ngừng khởi động ngoại vận và các cuộc đàm phán bất tín nhiệm từ phía điện Kremlin, Nga hiện nay đã phát động một cuộc xâm lược Ukraine toàn diện, trong những gì các giới chức Mỹ nói là một hoạt động để “xử trảm” chính phủ hiện nay do dân bầu. Bất chấp những cảnh báo lặp đi lặp lại của chính quyền Biden rằng Nga tham chiến một cách nghiêm trọng, các hình ảnh xe tăng và phi đội trực thăng Nga tấn công Ukraine đã gây sốc cho thế giới. Hiện nay, chúng ta phải lượng định những hậu quả kinh tế và tài chính của sự phát triển lịch sử này. Bắt đầu với một sự quan sát địa chính trị quan trọng: Đây là một sự leo thang chủ yếu của Chiến tranh Lạnh lần thứ hai, trong đó bốn cường quốc xét lại – Trung Quốc, Nga, Iran và Bắc Triều Tiên – đang thách thức sự thống trị toàn cầu lâu đời của Hoa Kỳ và trật tự quốc tế do phương Tây lãnh đạo đã tạo ra sau Thế chiến thứ hai. Trong bối cảnh đó, chúng ta đã bước vào một cuộc suy thoái về địa chính trị mà nó sẽ có những hậu quả toàn diện về kinh tế và tài chính mà nó vượt ra ngoài Ukraine. Đặc biệt, hiện nay, một cuộc chiến tranh nóng bỏng giữa các cường quốc có nhiều khả năng xảy ra trong thập kỷ tới. Khi sự cạnh tranh chiến tranh lạnh mới giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục leo thang, Đài Loan cũng sẽ ngày càng trở thành một điểm nóng tiềm tàng, khiến cho phương Tây chống lại liên minh mới nổi dậy của các cường quốc xét lại.
 

Tình trạng suy thoái do vừa trì trệ vừa lạm phát

Một rủi ro lớn hiện nay là các thị trường và các nhà phân tích chính trị sẽ đánh giá thấp các tác động của sự thay đổi chế độ địa chính trị này. Vào cuối phiên giao dịch ngày 24/2 – ngày xảy ra cuộc xâm lược – thị trường chứng khoán Mỹ đã tăng điểm  với hy vọng rằng cuộc xung đột này sẽ làm trì trệ việc sẵn sàng tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và các ngân hàng trung ương khác. Nhưng cuộc chiến Ukraine không chỉ là một cuộc xung đột nhỏ, không gây tác hại về mặt kinh tế và tài chính thuộc loại này mà người ta thấy  ở những nơi khác trong những thập kỷ gần đây. Các nhà phân tích và nhà đầu tư không được phạm sai lầm tương tự như trước Thế chiến thứ nhất, khi hầu như không ai thấy một cuộc xung đột toàn cầu lớn sắp xảy ra. Cuộc khủng hoảng ngày nay thể hiện cho một bước nhảy vọt lượng tử địa chính trị. Các hiệu ứng và ý nghĩa lâu dài của nó khó có thể bị phóng đại. Về mặt kinh tế, một tình trạng suy thoái vừa do lạm phát vừa do trì trệ trên trong toàn cầu hiện nay rất có khả năng xảy ra. Các nhà phân tích đã tự hỏi liệu Fed và các ngân hàng trung ương quan trọng khác có thể đạt được một cuộc hạ cánh an toàn từ cuộc khủng hoảng này và hậu quả của nó hay không. Đừng trông chờ vào việc này. Cuộc chiến ở Ukraine sẽ gây ra một cú sốc về nguồn cung tiêu cực toàn diện trong một nền kinh tế toàn cầu mà nó vẫn còn đang chao đảo vì COVID-19 và sự thành hình kéo dài cả năm của các áp lực lạm phát. Cú sốc sẽ làm giảm tăng trưởng và tăng lạm phát hơn nữa vào thời điểm khi các lo âu về lạm phát vốn dĩ đã không bình ổn . 


Tác động thị trường tài chính trong ngắn hạn của cuộc chiến đã rõ ràng. Đối mặt với một cú sốc quy mô vừa lạm phát vừa trì trệ, các thị trường chứng khoán trong toàn cầu có thể sẽ chuyển từ phạm vi điều chỉnh hiện tại (-10%) cho đến lãnh thổ thị trường (-20% trở lên). Doanh thu từ các trái phiếu an toàn của chính phủ sẽ giảm sút trong một thời gian và sau đó tăng sau khi lạm phát trở nên giảm. Giá dầu và khí đốt tự nhiên sẽ tăng vọt hơn nữa - lên trên 100 đô la/thùng - cũng như nhiều giá thương phẩm khác vì cả Nga và Ukraine đều là những nhà xuất khẩu quan trọng về nguyên liệu và thực phẩm . Các loại tiền tệ  an toàn như đồng franc Thụy Sĩ sẽ mạnh lên và giá vàng sẽ tăng hơn nữa. Hậu quả kinh tế và tài chính từ chiến tranh và cú sốc lạm phát tất nhiên là kết quả sẽ lớn nhất ở Nga và Ukraine, tiếp theo là Liên minh châu Âu, do sự phụ thuộc nặng nề vào khí đốt của Nga. Nhưng ngay cả Mỹ cũng sẽ phải gánh chịu. Bởi vì các thị trường năng lượng thế giới đang hội nhập rất sâu xa, sự gia tăng đột biến của các giá dầu trong toàn cầu - được tính theo tiêu chuẩn của Brent - sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá dầu thô của Mỹ (West Texas Intermediate). Đúng, Hoa Kỳ hiện nay là một nước nhỏ về xuất khẩu ròng năng lượng; nhưng sự phân bố vĩ mô của cú sốc sẽ là tiêu cực. Trong khi một tập họp nhỏ các doanh nghiệp năng lượng sẽ thu lợi nhuận cao hơn, các hộ gia đình và doanh nghiệp sẽ trải qua một cú sốc giá toàn diện, khiến cả hai giảm chi tiêu. Với những động lực này, ngay cả một nền kinh tế Mỹ mạnh mẽ cũng sẽ bị suy giảm mạnh một cách khác, nghiêng về suy thoái tăng trưởng. Các tình trạng tài chính nghiêm chặt hơn và những tác động kết quả đối với niềm tin của nhà doanh nghiệp, người tiêu dùng và nhà đầu tư sẽ trầm trọng thêm những hậu quả vĩ mô tiêu cực của cuộc xâm lược của Nga, cả ở Mỹ và trên toàn cầu. Các biện pháp trừng phạt sắp tới đối với Nga - dù lan rộng hay hạn chế, và dù cần thiết để răn đe trong tương lai - chắc chắn sẽ làm tổn thương không chỉ Nga mà cả Mỹ, phương Tây và các thị trường mới nổi. Như Tổng thống Mỹ Joe Biden đã nhiều lần nói rõ trong các tuyên bố công khai của mình với người dân Mỹ, "bảo vệ tự do cũng sẽ phải trả giá cho chúng ta ở trong nước. Chúng ta cần phải thành thực về điều đó". Hơn nữa, người ta không thể loại trừ khả năng mà Nga sẽ đáp trả các lệnh trừng phạt mới của phương Tây bằng các đối sách riêng: cụ thể là giảm mạnh sản lượng dầu để đẩy giá dầu toàn cầu lên cao hơn nữa. Một động thái như vậy sẽ mang lại lợi thuần cho Nga cho đến chừng nào mà sự gia tăng phụ thuộc về giá dầu lớn hơn so với việc thất lợi xuất khẩu dầu. Putin biết rằng có thể gây ra thiệt hại bất đối xứng cho các nền kinh tế và thị trường phương Tây, bởi vì Putin đã dành phần lớn thời gian tốt hơn trong thập kỷ qua để xây dựng một quỹ chiến tranh và tạo ra một lá chắn tài chính chống lại các lệnh trừng phạt kinh tế bổ sung.


 

Kiểm soát thiệt hại bị hạn chế

Một cú sốc nặng nề về vừa trì trệ và vừa lạm phát cũng là một kịch bản đầy ác mộng đối với các ngân hàng trung ương, sẽ bị thiệt hại là nếu họ phản ứng và bị thiệt hại nếu họ không phản đối. Một mặt, nếu họ quan tâm chủ yếu đến tăng trưởng, họ nên trì hoãn tăng lãi suất hoặc thực hiện chúng chậm hơn. Nhưng trong môi trường ngày nay - nơi lạm phát đang gia tăng và các ngân hàng trung ương đã đứng sau khúc tuyến - việc thắt chặt chính sách chậm hơn có thể gây bất ổn về các lo âu lạm phát, làm trầm trọng thêm tình trạng vừa lạm phát và trì trệ. Mặt khác, nếu các ngân hàng trung ương cắn răng cam chịu và vẫn hiếu chiến (hoặc trở nên diều hâu hơn), cuộc suy thoái đe doạ sắp xảy ra sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Lạm phát sẽ được chiến đấu với các mức độ chính sách danh nghĩa và thực tế cao hơn, tăng giá tiền, và do đó làm giảm nền kinh tế nói chung. Chúng ta đã xem bộ phim này hai lần trước đây, với những cú sốc giá dầu năm 1973 và 1979. Việc tái diễn hôm nay sẽ gần như tệ hại. Mặc dù các ngân hàng trung ương nên đối mặt với sự trở lại của nạn lạm phát một cách mạnh mẽ, họ rất có thể sẽ cố gắng để tránh né nó, như họ đã làm trong những năm 1970. Họ sẽ lập luận rằng vấn đề chỉ là tạm thời và chính sách tiền tệ không thể gây ảnh hưởng hoặc thu hồi một cú sốc cung tiêu cực từ bên ngoài đến. Khi thời điểm của sự thật đến, họ có thể sẽ nhắm mắt, chọn tốc độ thắt chặt tiền tệ chậm hơn để tránh gây ra một cuộc suy thoái thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Nhưng điều này sẽ làm biến động trong ngắn hạn các kỳ vọng lạm phát hơn nữa. 

Trong khi đó, các chính trị gia sẽ cố gắng giảm bớt cú sốc tiêu cực về nguồn cung. Mỹ sẽ cố gắng giảm thiểu sự gia tăng giá xăng dầu bằng cách giảm Quỹ Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược và thúc đẩy Saudi Arabia sử dụng công suất dự phòng để tăng sản lượng dầu riêng. Nhưng những biện pháp này sẽ chỉ có tác động hạn chế, bởi vì những lo ngại rộng rãi về việc tăng giá hơn nữa sẽ dẫn đến việc tích trữ các nguồn cung cấp năng lượng toàn cầu. Trong những hoàn cảnh mới này, Mỹ sẽ cảm thấy áp lực nhiều hơn để đạt được một thoả ước với Iran – một nguồn dầu tiềm năng khác - về việc khôi phục thỏa thuận hạt nhân năm 2015. Nhưng Iran thực sự liên minh với Trung Quốc và Nga, và các nhà lãnh đạo của họ biết rằng bất kỳ thỏa thuận nào họ làm ngày hôm nay có thể bị gạt sang một bên vào năm 2025 nếu Donald Trump hoặc một người muốn như Trump lên nắm quyền ở Mỹ. Do đó, một thỏa thuận hạt nhân mới với Iran là không thể. Tồi tệ hơn, trong trường hợp không có một thoả hiệp, Iran sẽ tiếp tục thúc đẩy chương trình hạt nhân của mình, làm tăng nguy cơ Israel sẽ tiến hành một cuộc tấn công chống lại các cơ sở của mình. Điều đó sẽ mang lại một cú sốc nguồn cung tiêu cực kép cho nền kinh tế toàn cầu. Kết quả là những hạn chế địa chính trị khác nhau sẽ hạn chế nghiêm trọng khả năng của phương Tây trong việc chống lại cú sốc lạm phát do cuộc chiến ở Ukraine gây ra. 

Một vấn đề cũ và mới

Các nhà lãnh đạo phương Tây cũng không thể dựa vào chính sách tài chánh để chống lại những tác động làm giảm tăng trưởng của cú sốc Ukraine. Thứ nhất, Mỹ và nhiều nền kinh tế tiên tiến khác đang cạn kiệt phương tiện tài chính, đã tận dụng tất cả  các biện pháp đình chỉ để đối phó với đại dịch COVID-19. Các chính phủ đã có nhiều thâm hụt ngày càng tăng lên làm không bền vững, và việc phục vụ các khoản nợ này sẽ trở nên đắt hơn nhiều trong một bối cảnh lãi suất cao hơn. Hơn nữa, một biện pháp khích lệ bằng ngân sách là đối sách sai lầm đối với cú sốc cung ứng vừa làm lạm phát và trì trệ. Mặc dù nó có thể làm giảm tác động tăng trưởng tiêu cực của cú sốc, nhưng nó sẽ làm tăng áp lực lạm phát. Và nếu các nhà hoạch định chính sách dựa vào cả hai chính sách vừa tiền tệ và ngân sách để đối phó với cú sốc, hậu quả vừa lạm phát và vừa trì trệ sẽ trở nên nghiêm trọng hơn, do ảnh hưởng cao đến các kỳ vọng lạm phát. Các chính sách khích lệ về tiền tệ và ngân sách khổng lồ mà các chính phủ đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 không phải là lạm phát vì nguồn gốc của cú sốc đó là ở phía nhu cầu, được thúc đẩy bởi cuộc khủng hoảng tín dụng vào thời điểm lạm phát thấp và dưới mục tiêu. Tình hình hiện nay hoàn toàn khác. Chúng ta đang phải đối mặt với một cú sốc nguồn cung tiêu cực trong một thế giới nơi mà lạm phát đã tăng và trên mục tiêu. Thật hấp dẫn khi nghĩ rằng cuộc xung đột Nga-Ukraine sẽ chỉ có tác động kinh tế và tài chính nhỏ và tạm thời. Rốt cuộc, Nga chỉ chiếm 3% nền kinh tế toàn cầu (và Ukraine ít hơn nhiều). Nhưng các quốc gia Ả Rập đã áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ vào năm 1973 và cuộc cách mạng ở Iran vào năm 1979, cho thấy  một phần thậm chí còn nhỏ hơn trong GDP toàn cầu so với Nga ngày nay. Tác động toàn cầu trong cuộc chiến của Putin sẽ được chuyển qua dầu mỏ và khí đốt tự nhiên, nhưng nó sẽ không dừng lại ở đó. Các hiệu ứng đánh mạnh sẽ giáng một đòn vào niềm tin trong toàn cầu vào thời điểm mà sự phục hồi mong manh từ đại dịch đã bước vào giai đoạn bất trắc sâu đậm hơn và các áp lực về lạm phát đang gia tăng. Những tác động của cuộc khủng hoảng Ukraine - và từ cuộc suy thoái địa chính trị rộng lớn hơn mà nó cảnh báo cho tương lai - sẽ là khác hẳn, bất cứ mọi điều có thể xảy ra mà không phải là tạm thời. 


Nouriel Roubini/ Đỗ Kim Thêm dịch 


Tiểu sử tác giả: Nouriel Roubini, Giáo sư Kinh tế học hồi hưu, Phân khoa Kinh doanh Stern, Đại học New York, Kinh tế trưởng của Atlas Capital Team, Giám đốc điều hành của Roubini Macro Associates và đồng sáng lập TheBoomBust.com, Chuyên gia trong Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Clinton và làm việc cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và Ngân hàng Thế giới. Trang web riêng là NourielRoubini.com và điều khiển chương trình NourielToday.com.


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.