Hôm nay,  

Kinh Tế Dễ Hiểu: Lịch Sử Kinh Tế Nước Mỹ (Chương 21)

10/11/202114:00:00(Xem: 3083)

ECONOMICS


Nền kinh tế nước Mỹ chia thành 4 giai đoạn dưới ảnh hưởng của 3 kinh tế gia lổi lạc:


  1. Lập quốc cho đến thập niên 1929: bàn tay vô hình điều hướng thị trường tự do theo Adam Smith

  2. Thập niên 1930 cho đến 1980: bàn tay của nhà nước can thiệp vào thị trường theo John M. Keynes

  3. 1980-2007: thị trường tự do theo Adam Smith nhưng với Ngân Hàng Trung Ương (NHTƯ) quản lý chính sách tiền tệ theo Milton Friedman.

  4. 2007 cho đến: nhà nước can thiệp vào thị trường theo John M. Keynes cùng với NHTƯ quản lý chính sách tiền tệ theo Milton Friedman.


Cho dù Karl Marx không hiện diện mạnh ở Mỹ nhưng tư tưởng Marx ảnh hưởng đến xã hội và kinh tế của Hoa Kỳ từ cuối thế kỷ thứ 18 (giai đọan cực thịnh của nền tư bản Mỹ) cho đến 1929 (Đại Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu).


MỸ (1779-1929) VÀ ADAM SMITH (Luận Bàn về Của Cải Quốc Gia, 1779)


Nước Mỹ ra đời vào năm 1779 tức là cùng năm với quyển sách Luận Bàn về Của Cải của Các Quốc Gia (The Wealth Of Nations) của Adam Smith - người vốn được xem là ông tổ bộ môn kinh tế học. Smith cho rằng thị trường phải được vận hành tự do thì mọi người mới vì tư lợi mà hăng hái làm việc, tạo ra của cải và trao đổi hàng hóa khiến quốc gia trở nên thịnh vượng. Nhà nước chỉ có vai trò hạn hẹp để giữ trật tự (chống gian lận, đầu cơ, ăn cướp…) nhưng không can thiệp vào sự vận hành của thị trường tự do.  


Quan điểm về thị trường tự do và quyền tự do cá nhân của Adam Smith phù hợp với người di dân lập quốc ở Tân Thế Giới. Hoa Kỳ là mảnh đất của những kẻ trốn chạy nạn đàn áp ở châu Âu. Nước Mỹ lại vừa dành độc lập từ Vương Quốc Anh cho nên dân chúng Hoa Kỳ mang tinh thần tự lập đi khai phá những chân trời mới. Nhà nước dựng lên chỉ để bảo vệ an ninh lãnh thổ và thi hành luật pháp mà không được quấy nhiễu dân chúng tự do làm ăn. Bài nhạc nổi tiếng The Star-Spangled Banner với lời ca bất hủ “the land of the free and the home of the brave” (mảnh đất của tự do, mái nhà của những người can đảm) thể hiện tính tự hào và độc lập đó.


MỸ (1860-1929) VÀ KARL MARX (Tư Bản Luận, 1867)


Nền tư bản Âu-Mỹ tiến lên giai đoạn cực thịnh vào cuối thế kỷ 19 song song với hai trào lưu công nghiệp hóa và đô thị hóa.  Thời Đại Vàng Mã (Gilded Age) từ 1860-1896 ở Mỹ là giai đoạn giàu sang hào nhoáng bên cạnh các bất công sâu sắc cùng với khoảng cách giàu nghèo tăng vọt trong xã hội. Nước Mỹ có 24 ông Trùm (robber barons) trong các ngành dầu hỏa Rockefeller, đường sắt Standford, luyện kim Carnegie và tài chánh ngân hàng J.P. Morgan vừa chi phối nền kinh tế lại khuynh đảo quyền lực chính trị. 


Đây cũng chính là lúc Karl Marx cho ra đời quyễn Tư Bản Luận (1867) ở Âu Châu tố cáo giới chủ bóc lột thợ thuyền và kêu gọi cách mạng vô sản lật đổ chế độ tư bản.


Tiếp nối Thời Đại Vàng Mã là Kỷ Nguyên Cấp Tiến (Progressive Era, 1896-1920) trong đó nền báo chí tự do Hoa Kỳ (tên gọi Muckraker) phơi trần các cấu kết giữa giới tài phiệt và quan chức nhà nước nhằm thúc giục quần chúng tranh đấu đòi tổ chức công đoàn và cải tổ luật lao động. Năm 1922 Lenin thành lập Liên Bang Xô-Viết, nước Nga trở thành hình mẩu cho thiên đàng vô sản. Phong trào cộng sản quốc tế trổi lên thu hút giới cấp tiến và công nhân ở Mỹ. Cho dù Marx không hiện diện trực tiếp nhưng bóng dáng của Marx lảng vảng chi phối đến các cải cách kinh tế và lao động ở Mỹ trong giai đoạn này.


 


Sự ra đời của Liên Bang Xô-Viết (1922) và cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu (1929) khiến chủ nghĩa cộng sản càng trở nên hấp dẫn thu hút giới công nhân thợ thuyền ở Mỹ. Ngược lại bên Âu Châu dân Đức uất ức với những điều kiện nghiệt ngã do phe thắng trận Anh-Pháp áp đặt trong Hoà Ước Versailles (1919); nạn lạm phát phi mã (1923) khiến nước Đức ngã theo Phát Xít rồi sau này đem đến Thế Chiến Thứ Hai. 


Chủ nghĩa tư bản có vẽ đang sụp đổ theo đúng như lời tiên tri của Marx-Lenin. Năm 1936 John M. Keynes cho ra đời quyển Lý Thuyết Tổng Quát về Công Ăn Việc Làm, Lãi Xuất và Tiền Tệ) lập luận rằng một khi nền tư bản không tự điều chỉnh được thì bàn tay hữu hình của nhà nước phải can thiệp để tạo công ăn việc làm nhằm ổn định nền kinh tế và tránh bạo loạn xã hội vốn sẽ dẫn đến cách mạng, độc tài, phát xít, cộng sản hay chiến tranh. Keynes chủ trương nhà nước dùng các biện pháp tài chánh (fiscal policy, gồm tăng chi ngân sách và giảm thuế) để kích cầu theo kiểu mồi xăng cho máy nổ thoát ra khủng hoảng.


Năm 1932 Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đắc cử ở Mỹ với chương trình New Deal (1933-1939) gồm: 

  • nhà nước chi tiêu đầu tư xây cất hạ tầng nhằm tạo công ăn việc làm;

  • nhà nước xây dựng mạng lưới an sinh xã hội (safety net) để hổ trợ thất nghiệp và lương hưu trí;

  • nhà nước giám sát hệ thống ngân hàng (Glass-Steagall Act);

  • nhà nước cải tổ luật lao động và công đoàn;

  • nhà nước tăng thuế nhà giàu hổ trợ cho nhà nghèo.


Chi tiêu và vai trò của nhà nước tăng vọt. Mô hình kinh tế nước Mỹ biến đổi với bàn tay hữu hình của nhà nước can thiệp vào thị trường theo John M. Keynes. Phe chống đối cho rằng bàn tay nhà nước một khi đã thò dọc (government intervention) sẽ lạm quyền (government overreach) bóp méo thị trường tự do (market distortion) và xâm phạm đến quyền tự do cá nhân
, tức là con đường trá hình đi đến xã hội chủ nghĩa.


***


Sau Thế Chiến Thứ Hai nền kinh tế Mỹ đứng hàng đầu và chiếm 40% GDP toàn thế giới vào năm 1960. Tổng Thống Lyndon B. Johnson (đảng Dân Chủ) nhậm chức phát động Cuộc Chiến Chống Nghèo Đói (War Against Poverty, 1964) cùng lúc với nước Mỹ sa lầy vào chiến tranh Việt Nam.


Johnson mở rộng mạng lưới xã hội (safety net, cho thất nghiệp và hưu trí) thời Roosevelt trở thành chế độ nhà nước phúc lợi (welfare state, bao gồm trợ cấp nhà nghèo (welfare), trợ cấp nhà ở (housing), trợ cấp thực phẩm (food stamp), trợ cấp y tế (medicare).) Safety Net là trợ cấp lúc hoạn nạn; Welfare State là nhà nước bao cấp tạo ra sự ỷ lại, lười biếng và lạm dụng. Chế độ nhà nước bao cấp bị tố cáo là nhà nước lạm quyền dùng chiêu bài bình đẳng xã hội để thò tay can thiệp bóp nghẹt thị trường tự do và tiến lên xã hội chủ nghĩa.


MỸ (1980-2007) VÀ MILTON FRIEDMAN


Chiến tranh Việt Nam và Cuộc Chiến Chống Nghèo Đói vô cùng tốn kém khiến ngân sách nước Mỹ thâm thủng nặng nề. Đồng đô-la lúc đó đổi 35 USD ra 1 lượng vàng, các nước Âu Châu sợ Mỹ hết vàng đòi rút vàng về nước. Năm 1971 Tổng Thống Richard M. Nixon tuyên bố Mỹ “tạm” ngưng neo giá trị USD vào vàng (từ bỏ kim bảng vị). Nhà nước Hoa Kỳ từ đó được rộng tay in USD tiêu xài. Lượng tiền tăng nhanh, đến năm 1973 lại thêm gặp khủng hoảng dầu hỏa khiến giá cả nhảy vọt. Lạm phát lên đến 15% năm 1980 (so với 1.25% năm 2021.) 

  

Năm 1979 Thống Đốc Ngân Hàng Paul Vocker thắt chặt lượng tiền lưu hành bằng cách tăng lãi suất chỉ đạo lên 20% (so với 0.25% năm 2021) để kềm chế lạm phát. Tuy khuất phục được lạm phát nhưng giá đắt phải trả là nạn thất nghiệp 10% và kinh tế suy thoái 1980-1982.


Năm 1981 Tổng Thống Ronald Reagan nhậm chức với chủ trương cắt giảm vai trò của nhà nước để giải phóng sức mạnh hung hãn (animal spirit) của tư nhân và thị trường tự do không còn bị bóng dáng nhà nước che phủ. Reagan tuyên bố câu bất hủ “Government is not the solution to our problem, government is the problem” (Nhà nước không phải là lời giải đáp bởi vì nhà nước chính là gánh nặng.)


Chủ trương của John M. Keynes về bàn tay hữu hình của nhà nước can thiệp vào kinh tế mờ nhạt và bị thay thế bởi Milton Friedman. Friedman thuộc phe tự do cá nhân (libertarian) chống đối quyền lực của nhà nước đặt trên tự do cá nhân và chủ trương nhà nước không can thiệp vào thị trường tự do. Friedman lại khai triển lý thuyết tiền tệ (monetarism) cho rằng Ngân Hàng Trung Ương (NHTƯ) phải hổ trợ nền kinh tế bằng cách giám sát lãi xuất và lượng tiền lưu hành, kiểu như khi cổ xe kinh tế chạy chậm thì tài xế (NHTƯ) nhấn ga bơm xăng (bơm tiền và hạ lãi xuất) đến khi xe vọt ngon trớn lại buông ga bớt xăng (để tránh lạm phát.)


Tưởng cũng nên phân biệt giữa John M. Keynes và Milton Friedman:

  • Keynes: nhà nước tăng giảm chi tiêu nghịch chu kỳ (counter-cyclical spending) bằng biện pháp tài chánh (fiscal policy, gồm ngân sách và thuế khóa);

  • Friedman: NHTƯ tăng giảm lãi xuất và lượng tiền lưu hành nghịch chu kỳ bằng chính sách tiền tệ (monetary policy).


Nhưng NHTƯ chẳng qua chỉ là nhà nước? Khác nhau ở chổ:


  1. NHTƯ là một cơ quan chuyên môn không có quyền lực chính trị như nhà nước. Chính sách tiền tệ của NHTƯ có thể quá trớn nhưng không thể quá đà như nhà nước lạm dụng quyền lực chính trị vi phạm đến tự do cá nhân và của cải của dân chúng.

  2. NHTƯ thuần túy lo về kinh tế (lạm phát và công ăn việc làm), trong khi các vấn đề xã hội như bình đẳng màu da, giàu nghèo phải do các đại diện dân bầu quyết định.

  3. NHTƯ là một cơ quan độc lập để không bị nhà nước biến trở thành một công cụ chính trị (thí dụ nhà nước không thể thúc NHTƯ hạ lãi suất nhằm mua chuộc lá phiếu trong mùa bầu cử.)


Như vậy nguyên tắc độc lập của NHTƯ không chỉ trong phạm vi kinh tế mà còn hàm ý nghĩa chính trị. 


Tóm lại từ năm 1980 (Reagan) cho đến 2007 (Đại Khủng Hoảng Tài Chánh): 

  • John M. Keynes (fiscal policy) rời sân khấu

  • Milton Friedman (monetary policy) thành kép chính.


Nhạc công (maestro) nổi tiếng nhất trong giai đoạn này là Thống Đốc NHTƯ Alan Greenspan điều chỉnh lãi xuất chỉ đạo. Thị trường theo dõi canh me cặp-táp ông xách đi họp, dày cộm thì hạ giá chứng khoáng (ông có nhiều chuyện bàn) còn mỏng thì tăng giá (chẳng có gì để nói.) 


MỸ (2007 cho đến nay)


Từ năm 2007-2020 nước Mỹ bị 2 cú sốc gần chết nên đem cả John M. Keynes và Milton Friedman cùng lên sân khấu.


Cú sốc thứ nhất khi đầu cơ địa ốc dẫn đến Đại Khủng Hoảng Tài Chánh 2007-2008. 

  • Nhà nước dùng biện pháp tài chánh (fiscal policy) tung ra gói cứu nguy (TARP 2008, 700 tỷ USD) và gói kích cầu (ARRA 2009, 831 tỷ USD);

  • NHTƯ dùng chính sách tiền tệ (monetary policy) bơm tiền (Quantitative Easing) và giữ lãi suất thấp


Cú sốc thứ nhì với Đại Dịch Vũ Hán năm 2020:

  • Nhà nước dùng chính sách tài chánh tung ra 2 gói cứu trợ (Trump 2020, 2200 tỷ USD; Biden 2021, 1900 tỷ USD);

  • Biden đang vận động đầu tư hạ tầng (Infrastructure Plan, 1200 tỷ USD) và an sinh xã hội (Build Back Better, 1750 tỷ USD);

  • NHTƯ tiếp tục bơm tiền và giữ lãi suất thấp (NHTƯ cho biết sẽ bớt bơm tiền vì lạm phát đang lên.)


Cho nên nợ công nước Mỹ tăng vọt. Năng suất không tăng mà GDP tăng (do nhà nước bơm tiền). Dân chúng không cần đi làm mà vẫn tiền dư rủng rỉnh.


Vai trò trên sân khấu của Milton Friedman không thay đổi (NHTƯ tiếp tục bơm tiền và hạ lãi suất) nhưng của John M. Keynes ngày càng lấn áp với bàn tay can thiệp của nhà nước không những để cứu vớt nền kinh tế mà còn lạm quyền dùng ngân sách và thuế khóa thò dọc cải tạo xã hội (bình đẳng màu da, giàu nghèo, đánh thuế nhà giàu…) theo kiểu xã hội chủ nghĩa. Chính ngay NHTƯ hiện giờ cũng bị áp lực chính trị để dùng biện pháp tiền tệ tạo công bằng xã hội và hổ trợ đầu tư công nghệ xanh, tức là tính độc lập của NHTƯ đang bị đe dọa. 


Những kinh tế gia cánh tả như Paul Krugman thúc giục Biden đánh thuế cao và tiêu xài nhiều hơn nửa để bảo vệ môi trường và tạo bình đẳng giàu nghèo. Mỹ nợ ngập đầu nên đẻ ra một lý thuyết mới thịnh hành trong phe cấp tiến là Thuyết Tân Tiền Tệ (MMT, hay Modern Monetary Theory) lập luận nhà nước đừng lo nợ tăng, vì Mỹ mượn nợ bằng USD nên Mỹ in USD trả nợ. 


Mỹ chê Tàu dởm. Tàu cười Mỹ khùng.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.