Hình ảnh ngày cận Tết ở miền Trung.
Uyển Ca
Tháng Chạp về gần, nghe như chạm lưng, khi bà mang chiếc cào, cào đám lá khô và nhí nhoáy cái hộp quẹt dầu cho có lửa. Cũng chẳng gần mấy khi màu sương tháng chạp đã sắp tàn.
5 giờ sáng, đứa trẻ hí hoáy ngoáy mũi hỏi cha về cái trời sáng chi lạ, mây ở đâu ngay trước mặt mình, trời không mưa nhưng mai lại ngậm nước.
Tết về, trẻ con khoe đồ mới và long nhong lên đầu làng mua cái súng nước, về chí chóe mẹ la vì ướt đồ.
Tết về, cúng cơm ông bà, rót trà mời khách, cả nhà vui cười chúc Tết đầu năm.
Tết về, người già hom hem bên ống trầu nhổ bã: tổ cha bây răng chưa đi (thăm bà con, tảo mộ…) cho rồi.
***
Chiều cuối năm trời se se lạnh, mẹ chở ra chợ mua thêm cho cái áo mới. Đứa trẻ cười tít mắt bảo con thích áo dài xanh. Mẹ thầm nhủ màu xanh trong mắt con sao đẹp thế, màu nước biển, màu hòa bình màu của tự do.
Xong đâu đấy, là cà theo chân mẹ.
- Hoa này bán bao nhiêu vậy con ơi?
- Cúc vàng 10 ngàn một cây, cúc tím, cúc bảy màu 9 ngàn một cây ạ?
- Thế còn đu đủ, bao nhiêu một trái con?
- Dạ cũng 10 ngàn ạ?
- Ừ, lấy cho cô 3 trái đu đủ và 6 cây cúc vàng.
- Đây của cô ạ!
- Cảm ơn con, thế con bao nhiêu tuổi rồi, sao đi bán hoa một mình thế này?
- Dạ con 11 tuổi rồi, năm nào con cũng theo mẹ đi bán nhưng năm nay mẹ bị bệnh nên con đi bán một mình, kiếm tiền về để mẹ lo Tết cho cả nhà...
Để thời gian cho đứa nhỏ bán thêm mấy đồng, tôi gửi tiền và không quên tặng cháu chút quà nhỏ rồi dẫn con đi chợ tiếp.
Cơ hà các món được bán trước sân chợ Tết. Gọi là chợ Vĩnh Điện, nhưng lúc này chẳng ai bảo ra chợ Vĩnh Điện mua cả mà cứ kháo nhau là ra sân chợ mà mua cháu à. Toàn thức quê hết, là bà con mình tự mang ra bán.
Tôi nhìn quanh xem có ai quen để ghé lại mua giùm, nhưng trong cái không khí Tết, trong cái khoảng thời gian chỉ còn chưa đầy 12 giờ nữa là đến thời khắc giao thừa, mọi người đều từ lạ thành quen.
Nụ cười của cụ già bán trầu cau, những câu mời đon đả của những cô cậu sinh viên về quê ăn Tết phụ mẹ bán hàng rau, xúng xính những bộ áo mới ghé mua bó hoa ly, hoa tràng tiền về cắm. Thi thoảng dừng lại giữa thanh âm tháng Chạp, có tiếng thỏ thẻ, mẹ ăn bánh mì đi mẹ, nghỉ tay chút ăn cơm đi bà ơi, giờ đang giờ trưa, hy vọng chút nữa người ta sẽ đi chợ nhiều hơn.
***
Bà dậy từ lúc tờ mờ sáng, ra vườn hái mấy trái cà chua, ngắt mấy trái dưa chuột, vói tay lên hái trái bầu dài và nhờ ông cắt giùm trái bí đao, lấy chục hột trứng gà, và bẻ vài chục trái vả... tất cả được bà đặt cẩn thận vào đôi triên gióng và dùng lá chuối đậy lại. Hành trình đi chợ của bà bắt đầu.
Ở xứ này, nhà nào cũng trồng cây ăn trái, trồng rau ăn cơm, nên bà lặn lội xuống đến chợ Tây Ba – một ngôi chợ liêu phiêu nhà cổ có từ thời Pháp thuộc. Mon men theo bờ ruộng chừng 5km, rồi đi bộ thêm khoảng 6 cây số nữa, là đến chợ. Ở đây, Tết về nhiều người trên thành phố vẫn thường có thói quen thuê xích lô xuống chợ vào 30 Tết để mua mớ rau, mớ hành, mớ trứng, mớ thịt quê về ăn Tết, nghe người ta bảo là trên thành phố đắt đỏ lắm mà rau lại không ngon, thà thuê xích lô đi vừa ngắm cảnh phố phường, đường quê 30 Tết vừa được gặp những người quê chân chất thật thà, nụ cười hiền hậu, chẳng cần biết trả chác là chi.
Thường, những đứa nhỏ như tôi cùng ông dọn dẹp nhà cửa, tỉa tót cành mai, tưới nước vạn thọ, bởi biết rằng bà đi chợ về thế nào cũng cho tôi bịch chè.
Tầm 11 giờ trưa, nghe tiếng chó nhà trưởng thôn sủa từ đầu ngõ, tôi biết bà đã về.
- Quắn ơi, ra bà cho này!
- Dạ, con đây!
- Bà mua cho con cái áo mới, con thử xem vừa không?
Một cái áo khoác màu xanh thẳm, bà bảo có người mua trứng xong cho bà thêm mấy đồng vì bảo thấy bà già yếu nên bà có tiền mua cho tôi cái áo. Trời mùa này lạnh, cái lạnh xứ Huế cắt da cắt thịt, con mặc ba ngày Tết rồi để dành ra Giêng Hai có mà mặc, chứ cái lạnh Giêng Hai ghê lắm con à!
Màu áo xanh của bà theo tôi cho đến tận những năm học cấp 3, khi tự thêu tên mình vào áo, tôi cũng chọn màu chỉ xanh, rồi lớn lên vào đại học, được mua áo khoác mới, chẳng hiểu sao tôi cũng chọn màu xanh.
Có lẽ vì cái màu xanh tháng Chạp, màu xanh của chiều 30 Tết ấy đã hằn sâu vào ký ức tôi.
***
Tết về, ông bà giờ đã đi xa thật xa, tôi về làm dâu xứ Quảng, nơi tôi biết đến màu vàng nâu của chiếc bánh tổ, sự chở che của người chồng yêu thương. Sáng mồng Một Tết, hai đứa nhỏ bẻ hoa vạn thọ rồi cùng chúng tôi chúc thọ mẹ già, thắp hương bàn thờ gia tiên.
Tết về, không khí nay cũng khác, khắp các xóm làng người ta thi nhau mở nhạc ầm ầm, chỉ còn có cách là dẫn con ra thành phố, loanh quanh trên các con đường sầm uất quanh năm và cảm nhận thanh âm mùa xuân của nó, nơi giờ đây chỉ có hoa trước cửa và tiếng xe máy đôi khi cũng đủ làm mọi thứ trở nên xô bồ, bất định. Thường, tôi muốn các con mình trải nghiệm cảm giác này trước khi lên rừng đón Tết cùng các bạn vùng cao.
Tết về, thăm thú khắp nơi, chúc xuân người thân, bè bạn, thi thoảng cụng mừng ly rượu đầu năm...
- Ba mẹ ơi, ba mẹ có thể dẫn tụi con đi khu vui chơi không?
- Ừ con, hai đứa thích khu vui chơi nào nào?
- Dạ khu vui chơi có đu quay đó mẹ, tụi con thích đu quay và bong bóng nữa.
Rồi tụi con thích kem, thích socola, thích lên núi thăm các bạn không có Tết và mang kẹo lên ăn cùng bạn...
Tết về, chúng tôi thu xếp mọi việc ở nhà và dong xe lên vùng cao đón Tết, ở đó, có những phiến gỗ mỏng tanh, có những chiếc ổ hơi ấm gia đình, làm nơi che chắn cho cả nhà năm người, bảy người, mười người… Ở đó có những tiếng cười con trẻ như sương sớm, bẽn lẽn không nói nên lời khi người lớn hỏi chuyện, ở đó, có những phiến lá rừng trong trẻo khí trời chưa vướng bụi thị thành và có cả những ánh mắt như biết nói…
Lại một cái Tết nữa về, Tết thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với chủ thuyết “con người, phải ăn, mặc, ở trước tiên…”, mọi thứ thực phẩm hàng giả hàng thật trở nên phì đại, nhìn đâu cũng thấy rượu bia, nhìn đây cũng thấy lòe loẹt, núi rừng đang bị cày xới, bới tất từng ngày. Những người thiểu số lùi dần vào rừng sâu. Họ không muốn tiếp những người Kinh, họ sợ người Kinh làm náo động sự yên tĩnh của họ.
Cũng may là chúng tôi có mối giao hảo tương thiết với họ từ lâu, nên khi chúng tôi vào bản, họ không phải phòng ngự, họ tự nhiên, họ mang cái bánh ra rủ chúng tôi ăn, họ nói cho chúng tôi nghe về sự ngu ngốc của chúng tôi, họ bảo “bọn người Kinh của mày khôn quá thành ngu, mai mốt hết con mang, con hoẵng, con chồn, cái cây, bọn người Kinh mày nhai tiền mà sống đi!”, rồi họ cười với nhau như điên như dại.
Những lúc như thế, họ đáng yêu biết nhường nào, và cái cảm giác Tết về trở nên ấm áp, sinh động, cái cảm giác đón thêm một tuổi mới và lớn lên như một cái cây, để đâm chồi nảy lộc, để rưng rưng mùa sương về và vặn mình trổ bông cùng đại ngàn mênh mông… Ôi Tết!