Hôm nay,  

Nhớ Sông Dinh

07/11/201700:00:00(Xem: 6805)
Đường Du Bình

 
Theo lịch trình hành hương, hôm nay là ngày đi lên phố cổ Mandalay, miền trung Miến Điện. Mọi người thức dậy thật sớm tập trung tại phòng khách chờ xe buyt. Khách dậy quá sớm, nhà bếp của khách sạn chưa làm việc, nước nóng cũng chưa có để điểm tâm nên Thượng Toạ Trưởng đòan hành hương, phát cho mỗi người hai trái chuối ăn lót dạ. Một lúc sau khỏang 5 giờ sáng xe buýt đến, mọi người lôi hành lý lên xe. Từ giã khách sạn Yarkintha của phố củ Bagan, xe chạy dưới ánh đèn đường sáng rực rở nhưng đường vắng tanh, giờ này dân địa phương đang yên ngủ. Trong chốc lát xe đã chạy ra ngoại ô và chuyển lên quốc lộ đi về hướng Mandalay.

Xe đang chạy ngon trớn bỗng dưng chậm lại, tôi nhìn xa bên trong làng thấy nhiều ngôi nhà mái tole trong sương mù. Vài em nhỏ đua nhau chạy ra cổng làng. Tôi đưa máy ảnh tập trung tầm nhìn quan sát thật kỹ mới nhận ra trong sương mù có một đoàn sư trẻ đi khất thực. Đi đầu là một vị sư trưởng, hơn chục sư trẻ theo sau, có sư còn rất trẻ. Với hai tay ôm bình bát trước ngực, chậm rải từng bước đi; đoàn sư mỗi ngày khởi hành từ rạng đông để kết thúc về chùa trước canh Ngọ. Một nử thí chủ tay trái cầm giỏ thức ăn, tay phải trân trọng đặt món quà vào bình bát, miệng bà thì thầm đọc kinh. Vị sư trẻ nhận xong thức ăn cất chân bước tới vài bước rồi dừng lại để người khác có dịp bước tới thí chủ. Với những dáng điệu ấy, hết người này đến người khác. Nử thí chủ tiếp tục cúng dường cho đến vị sư cuối cùng trong đoàn khất thực.

Xe buyt nhấn ga phóng nhanh vượt qua đoàn sư khất thực. Hình ảnh ghi lại trong chiếc máy ảnh của tôi cho thấy cuộc sống ở nơi này thật thanh bình. Không giống như quê tôi. Hai khung trời và hai hoàn cảnh thật khác biệt.

Mùa Xuân Miến Điện trời xanh gió mát. Mặt trời buổi sáng lên cao chiếu sáng vào những ngọn tháp sừng sững trên đồi làm khung cảnh đẹp như bức tranh. Xe chạy qua nhiều xóm làng và phố nhỏ. Dọc theo xa lộ hai bên là rừng xanh lá thấp, có nơi hoang vu. Xa xa trong làng một cụm khói bốc lên cao, một chiếc xe bò lăn bánh tịch tan bên đường mòn. Chiếc xe bò giống như những chiếc xe bò ngày xưa đi chở lúa trên xã Ninh Hưng ở Huyện Ninh Hòa quê tôi. Mặt trời xuống dần phía Tây. Xe chạy vào thành phố Mandalay vào giờ cao điểm. Đường xá đông đảo với nhiều xe. Người đi bộ tấp nập hai bên đường. Bác tài cho xe chạy chậm, từ từ rướn vào sân của khách sạn Irrawaddy River View. Dưới ánh nắng vàng của mặt trời, các chư tăng và hai mươi lăm phật tử, từ nhiều nơi trên thế giới, theo thầy đi hành hương đều mệt mỏi, chậm chạp từng bước xuống xe.

Khách sạn Irrawaddy River View đối diện với con sông Irrawaddy, đây là con sông dài ngàn dặm, hùng vĩ xuất phát từ cao nguyên từ phía bắc, nó chảy qua thành phố Mandalay và qua nhiều thành phố miền nam của Miến Điện; nó xuyên qua thủ đô Yangon để rồi hòa nhập vào đại dương của vịnh Martaban. Tôi băng qua đường rồi đi dọc theo bờ sông quan sát, tôi thấy hàng quán ở đây lụp xụp, tạm bợ - có quán bán cà phê và nước ngọt, có quán bán thức ăn. Trong quán có mấy thực khách nam vận sarong cười đùa trò chuyện, quán kế bên có một đám người trẽ mắt châm châm tự sướng với cái màn ảnh nhỏ xíu.


Đi thêm mấy bước ra bờ sông mới thấy cát của con sông này đã bị người ta nạo vét  đưa vào bờ. Nhiều đống cát cao bằng mặt đường làm mất vẻ đẹp của thành phố. Thật là tội nghiệp cho nước này đã bị Liên Hiệp Quốc cấm vận hơn hai mươi lăm năm qua nên cát không được xuất cảng. Kinh tế của nước này bị suy sụp, ngành xây dựng bị hạn chế, cát không được xử dụng nên tích lủy thành bải cát trắng rộng lớn.  Một số người lợi dụng thời cơ cấm dùi trên bãi cát, vài căn chòi đơn sơ dựng lên để che nắng, thật là bi thảm cho những mảnh đời bị cấm vận. Gió từ ngoài sông thổi vào bờ mát rợi hất tung mấy chiếc áo quần phơi trên bãi cát. Dưới ánh chiều tà, mấy cầu thủ tí hon quần sà lỏn áo thun bụi bậm tranh nhau trái banh bị xì hơi, một em cố tình đá trái banh làm cho cát tung toé lên rồi cả đám lăng ra bải cát cười hô hố khiến tôi nhớ lại một buổi chiều thời niêu thiếu tôi và mấy bạn rong chơi trên bãi cát bên làng Vỉnh Phú thị xã Ninh Hòa quê tôi năm xưa.

Mặt trời treo trên đầu núi, một vòng hào quang màu vàng cam thu nhỏ nó báo hiệu màn đêm sắp đến, ánh mặt trời phản chiếu trên sông, một chiếc ghe câu về muộn giửa dòng sông. Người ta thường nói, người giống người, cảnh vật có nơi từa tựa giống nhau khiên tôi mơ tưởng con sông Irrawaddy Miến Điện như sông Dinh Ninh Hòa quê tôi.

Nhớ lại cái hôm chơi trên bải cát Vĩnh Phú bên bờ sông Dinh mà vui. Giữa lúc lính Tây hành quân tảo thanh du kích Việt Minh chung quanh huyện Ninh Hòa, thế mà đội banh của lính Tây Lê Dương cũng hẹn quyết đấu để trả thù đội banh huyện Ninh Hòa. Tin đồn Tây (đội banh Tây Lê Dương) quyết trả thù được loan ra khiến cho nhiều người hăng máu, họ rủ nhau đi coi chật nít sân banh.

Trận banh hôm đó diễn ra thật sôi nổi. Hôm đó đội banh Ninh Hòa do ông Àn vai tiền phong, ông đang chạy giữa sân, chú Hai Cát chạy gốc phải đưa banh thật mạnh qua gốc trái cho chú Chín Cu; chú Chín nhanh nhẹn lùa banh qua mặt ông Tây đội mủ bê rê đen cao một thướt tám. Chú Chín thộc trái banh vào giữa cho ông Àn, ngay lập tức ông Àn kê nhẹ bàn chân phải đưa trái banh thẳng vào lưới địch, tiếng vỗ tay vang rền một gốc trời. Đội banh Ninh Hòa thắng vẻ vang, dân chúng hồ hởi ra về, một số người tấp vào khu giãi trí Vỉnh Phú kế bên sát phạt đỏ đen, tôi và đám nạn quá vui mừng, bu quanh mấy ông cầu thủ hoang hô tiễn đưa cầu thủ ra về, rồi rủ nhau ra bải cát Vỉnh Phú bên bờ sông Dinh vui chơi thỏa thích mãi đến tối mới về.

Tôi xin chân thành gởi tất cả tình thương aí mộ đến các cầu thủ của đội banh Ninh Hòa năm xưa. Gồm có Ông Àn, Chú Chín Cu, Chú Hai Cát, anh Ba Tuông, anh Ba Quón, anh Trúc Thọ, anh Mành, anh Bảy thợ may, anh Mười Sang, anh Ba Bữu, anh Năm Hà, anh Bảy Nghi, chú Năm Tịnh, anh Hòa và anh Mỹ Xóm Rượu. Thành thật cáo lổi người Thủ Môn và một vài người trong đội banh Ninh Hòa năm xưa tôi không nhớ tên.

Kỷ niệm hành hương Miến Điện tháng 3 năm 2013  với các em - Hào, Mai, Ngọc Diệp và Ngọc Chi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ còn vỏn vẹn chưa đầy ba tuần nữa là ngày bầu cử. Cho đến hôm nay, ai nói, cũng đã nói. Ai làm, cũng đã làm. Nói nhiều hay ít, và làm nhiều hay ít, cũng đã thể hiện rõ ràng. Trừ khi, như một cựu ký giả của tờ Sóng Thần trước năm 1975, hiện đang sinh sống ở Virginia, nói rằng: “Có thể họ không lên tiếng trước công chúng, nhưng ngày bầu cử, lá phiếu của họ dành cho đảng đối lập.” Vị cựu nhà báo này muốn nói đến cựu tổng thống Hoa Kỳ, George W Bush, vị tổng thống duy nhất thuộc đảng Cộng hoà còn tại thế.
Hoa Kỳ luôn được tôn vinh là một cường quốc tích cực tham gia trong mọi sinh hoạt chính trị quốc tế, nhưng lịch sử ngoại giao đã chứng minh ngược lại: Hoa Kỳ từng theo đuổi nguyên tắc bất can thiệp và cũng đã nhiều lần dao động giữa hai chủ thuyết quốc tế và cô lập. Trong việc thực thi chính sách đối ngoại trong thế kỷ XX, Hoa Kỳ mới thực sự trực tiếp định hình cho nền chính trị toàn cầu, lãnh đạo thế giới tự do và bảo vệ nền an ninh trật tự chung. Nhưng đối với châu Âu, qua thời gian, vì nhiều lý do khác nhau, càng ngày Hoa Kỳ càng tỏ ra muốn tránh xa mọi ràng buộc càng tốt.
Tiếng Việt không ít những thành ngữ (ví von) liên hệ đến đặc tính của nhiều con vật hiền lành và quen thuộc: ăn như heo, ăn như mèo, nhát như cáy, gáy như dế, khóc như ri, lủi như trạch, chạy như ngựa, bơi như rái, khỏe như voi, hỗn như gấu, chậm như rùa, lanh như tép, ranh như cáo, câm như hến …Dù có trải qua thêm hàng ngàn hay hàng triệu năm tiến hóa, và thích nghi để sinh tồn chăng nữa – có lẽ – sóc vẫn cứ nhanh, sên vẫn cứ yếu, cú vẫn cứ hôi, lươn vẫn cứ trơn, đỉa vẫn cứ giai, thỏ vẫn cứ hiền, cá vẫn cứ tanh, chim vẫn cứ bay, cua vẫn cứ ngang (thôi) nhưng hến thì chưa chắc đã câm đâu nha.
Khi thiên tai đổ xuống, thảm họa xảy ra, và con người với khả năng chống đỡ có giới hạn, thì những gì nhân loại có thể làm là cứu nhau. Ngược lại với nguyên tắc tưởng chừng như bất di bất dịch của một thời đại mà con người luôn hướng đến hòa bình và lương thiện, lại là các thuyết âm mưu tạo ra để lan truyền thù ghét và mất niềm tin vào chính quyền đương nhiệm. Đại dịch Covid-19 vĩnh viễn là sự thật của lịch sử Mỹ, trong triều đại của Donald Trump. Tòa Bạch Ốc của Trump lúc ấy, qua lời mô tả của những nhân viên trong ngày dọn dẹp văn phòng làm việc để bắt đầu bước vào giai đoạn “work from home” là “ngôi nhà ma.” Giữa lúc số người chết tăng theo từng giây trên khắp thế giới thì Trump vẫn điên cuồng xoay chuyển “tứ phương tám hướng” để kéo người dân quay về một góc khác của đại dịch, theo ý của Trump: “Covid không nguy hiểm.”
Mặc dù các bác sĩ tâm thần có bổn phận bảo mật các thông tin sức khỏe tâm thần do bệnh nhân tiết lộ, nhưng hầu hết các tiểu bang tại Hoa Kỳ đều có luật bắt buộc hoặc cho phép bác sĩ tâm thần tiết lộ thông tin bí mật khi bệnh nhân có triển vọng gây tổn hại cho cộng đồng...
Trong tuần lễ cuối cùng của chiến dịch tranh cử tổng thống vào năm 1980 giữa Tổng Thống Đảng Jimmy Carter (Dân Chủ) và ứng cử viên Ronald Reagan (Cộng Hòa), hai ứng cử viên đã có một cuộc tranh luận duy nhất vào ngày 28 tháng 10. Trong cuộc tranh luận, Reagan đã nêu ra một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong mọi thời đại: “Hôm nay quý vị có khá hơn bốn năm trước hay không?” Câu trả lời của Carter là “KHÔNG." Cùng với một số lý do không kém quan trọng khác, số phiếu của ông đã giảm xuống vào những ngày quan trọng cuối cùng của chiến dịch tranh cử. Reagan đã giành được số phiếu phổ thông lớn và chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Nobel là một giải thưởng cao qúy nhưng đó không phải là tất cả hay tối thượng mà, xét cho cùng, mục tiêu của nền văn học quốc gia hay bất cứ lĩnh vực nào khác đâu nhất thiết là hướng tới giải Nobel? Mahatma Gandhi đã năm lần bị bác giải Nobel Hoà Bình nhưng so với một Henry Kissinger hí hửng ôm nửa cái giải ấy vào năm 1973, ai đáng ngưỡng mộ hơn ai? Tuyên ngôn Nobel Văn Chương 1938 vinh danh nhà văn Mỹ Pearl Buck về những tác phẩm “diễn tả xác thực đời sống của nông dân Trung Hoa” nhưng, so với Lỗ Tấn cùng thời, nhà văn không chỉ diễn tả xác thực đời sống mà cả tâm não của người Trung Hoa, ai để lại dư âm lâu dài hơn ai?
Nếu mũ cối là biểu tượng của thực dân Tây phương vào thế kỷ 18 thì, bây giờ, “năng lượng tích cực”, như là diễn ngôn của thực dân Đại Hán với những dấu ấn đậm nét của tân hoàng đế Tập Cận Bình, đã trở nên gắn bó với người Việt, từ diễn ngôn của thể chế cho đến giọng điệu ngôn tình của những đôi lứa bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa hôn nhân.
AI là trí tuệ nhân tạo. AI là một kho kiến thức nhiều vô cùng vô tận, đã siêu xuất chứa đựng nhiều thư viện nhân loại hơn bất kỳ dữ liệu tri thức nào, và cứ mỗi ngày AI lại mang thêm nhiều công năng hữu dụng, mà một người đời thường không thể nào có nổi kho tri thức đó. Trong khi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một nhà sư phi thường của dân tộc, với những tri kiến và hồn thơ (như dường) phong phú hơn bất kỳ nhà sư nào đã từng có của dân tộc Việt. Câu hỏi là, AI có thể biểu hiện như một Tuệ Sỹ hay không? Chúng ta có thể gặp lại một phong cách độc đáo của Tuệ Sỹ trong AI hay không? Thử nghiệm sau đây cho thấy AI không thể sáng tác được những câu đối cực kỳ thơ mộng như Thầy Tuệ Sỹ. Để thanh minh trước, người viết không phải là khoa học gia để có thể hiểu được vận hành của AI. Người viết bản thân cũng không phải học giả về kho tàng Kinh Phật để có thể đo lường sự uyên áo của Thầy Tuệ Sỹ.
Israel và Iran đã âm thầm chống nhau trong một thời gian dài. Nhưng nhiều diễn biến sôi động liên tục xảy ra gần đây làm cho xung đột giữa hai nước leo thang và chiến tranh có nguy cơ bùng nổ và lan rộng ra toàn khu vực. Điển hình là vào tháng 4 năm nay, Iran công khai tấn công bằng tên lửa vào lãnh thổ Israel. Đầu tháng 10, Israel đã tấn công bằng bộ binh ở miền nam Lebanon. Trước đó, trong cuộc không kích vào trụ sở dân quân Hezbollah ở Beirut, Israel đã tiêu diệt thủ lĩnh Hezbollah là Hassan Nasrallah và nhiều nhân vật quan trọng khác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.