Chú Giải
Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký
Nguyễn Văn Sâm
(Chuyện 19, 23 và sẽ chú tiếp theo)
Quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt của nhà văn nầy. In tới lui nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín. Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in bao nhiêu thì phải nói là cơ man.
Tại sao quyển truyện mỏng nầy lại có sức hấp dẫn như vậy? chính là nhờ ông Trương khi viết đã đưa ra hai mục tiêu và đã làm gần như trọn vẹn
1. Giáo dục về luân lý. Người đọc cẩnthận sẽ thấy những bài học tốt cho cách ở đời, cách xử thế, ứng xử trong trạng huống cần thiết, đề phòng kẻ xấu, chớ cả tin..
2. Dùng tiếng Annam (Việt Nam) ròng. Trong toàn quyển chuyện không sự kiện làm văn chương, mặc dầu điều nầy không hẵn là xấu, mà chỉ có sự sử dụng tiếng Việt thường nhựt, với những từ ngữ của người bình dân. Người đọc đón nhận cũng vì lẽ đó.
Ngoài ra vì tác giả khéo léo cho thấy sinh hoạt của dân chúng có thể nói là cuối thế kỷ 19 nên đây là nguồn tư liệu dồi dào về những chi tiết của cuộc sống dân ta mà gần như ngày nay không thể thấy (ăn ong, ăn bánh lớ, cái chày mổ, sư làm đám, hầm bắt cọp, bắt chồn, tục mai dong, tục ở rể…).
Sách viết hơn trăm năm trước, bằng chữ của dân miền cực Nam nên chắc chắn là khó hiểu với phần đông người đọc hiện giờ. Sự chú giải những từ nầy là cần thiết nên quyển sách Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký có lý do để ra đời.
Victorville, CA, tháng 11, 2016
19. Trách người ít đánh chầu.
Cũng có thằng khác[1] ra giả một đứa đầy tớ, một đứa làm chủ. Đầy tớ đi cày về, chủ hỏi cày được bao nhiêu? Nó nói được ít đàng[2] gì đó. Chủ mới nổi thần hung[3] lên, mới nhiếc nó dở dang làm biếng làm nhát. Thì nó nói:
_ Cày ít, có phải là tại tôi sao? Con trâu nó đi tới đâu thì tôi đi tới đó, chớ phép tôi khiêng nó được sao?
– Vầy sao mầy không đánh nó (tr.31) cho nó đi cho mau, cái da trâu là ông là cha gì mầy, mà mầy hòng sợ, mà không dám đánh?
Là có ý nói xóc tâm[4] anh cầm chầu, sao có hẹp với nó, không hay chầu hay thưởng[5].
20. Cha điếc, mẹ điếc, con điếc, rể điếc.
Hai ông bà điếc, sinh đặng một đức con gái cũng điếc, rầu mình vô phước, mình phận già cả chẳng nói làm gì, còn con mình tật nguyền điếc lác[6], biết gả cho ai mà gởi thân cho nó nhờ. Mà nghĩ lại mình cũng còn khá, lớn ruộng, nhiều trâu, thế cũng có khi cũng có dễ.
Vậy thấy một đứa trai lịch sự ở xa cách vài làng năng[7] vô ra tới lui trong làng, thì kêu nó mà gả con cho nó. Chẳng ngờ nó cũng điếc.
Cưới hỏi xong cả, nó về nó ở với cha mẹ vợ, thì cha nó biểu đứa con gái biểu nó ra coi cày bừa đám ruộng ở kề bên đường. Nó nghe liền vác cày ra cày. Đang lui cui cày, có ông quan đi ngang qua đó, mà là quan kinh mới tới nhậm[8], đứng lại hỏi thăm nó cái đàng đi vô dinh quan phủ.
Nó chẳng lành thì chớ[9], điếc nghe không rõ (tr. 32) tưởng ổng quở[10] sao có cày ruộng của ổng chăng, nên vọt miệng mắng: Ruộng tôi, tôi cày, sao ông nói ruộng của ông? Ông này ngang quá ghẹ[11] đi cà. Ong quan thấy nó dễ ngươi[12], thì biểu quân rượt đánh nó. Nó đâm đầu chạy về nhà, vợ đang ngồi nấu cơm trong bếp, nó đạp cỏn hai ba đạp chúi vào trong bếp:
_Ruộng nào ở đâu mà mầy chỉ bậy cho tao cày, làm người ta đánh tao cờ bơ cờ bấc[13], cũng là tại mầy lếu[14]?
Con kia nói:
_Dữ không? Đợi một chút cho người ta nấu dọn cho mà ăn không được? Làm gì bất nhơn làm vậy?
Kế lấy mẹ nó đi chợ leng keng[15] bưng rổ về, con gái ra mét[16], nói sao chồng độc dữ đá đạp nó làm vậy. Bả thấy bộ nó giận quạu quọ[17], thì ngờ là nó nói mình sao đi chợ năm tiền, mà ăn bánh ăn hàng hết đi mua về ít đó. May đâu, ổng đi tát dìa quảy vịt về, mới để xuống bả chạy lại bả nói:
_Tôi ăn bánh ăn hàng ở đâu? Mà con nó nói thêm nói thừa cho tôi?
Ông nghe không rõ, tưởng bả nói, sao mình có bắt cá mà cho ai, thì nói:
_Nào tôi có cho ai đâu? Đặng con nào bỏ vịt con nấy đem về, mà nói bắt cho ai? Có chứng lão cày ruộng một bên đó. Bà ra hỏi lão mà coi. Nắm tay bả dắt ra ngoài đồng lại hỏi lão cày:
_Chớ lão có thấy tôi bắt cá, mà cho ai không?
Chẳng may lão cày cũng lảng tai[18], tưởng là hỏi lão có khuấy chơi[19] lấy quần giấu đi chăng. (tr. 33)
(Thấy ổng đóng khố, thì hiểu làm vậy.) cho nên mới nói:
_ Nào! Tôi sớm mai đến giờ cứ cày hoài, tôi có qua chi bển, mà tôi hòng biết quần ổng để đâu, mà lấy mà giấu? Ông già khéo nghi bậy không?
21. Thằng cha nhảy cà tứng[20].
Thằng cha kia sợ vợ. Bữa nọ con mẻ[21] đi chợ, ở nhà anh ta lấy khoai đem lùi[22] bốn năm củ. Con mẻ đâu lơn tơn[23] về. Thằng chả ngó thấy bóng[24], lật đật lấy khoai bỏ vô trong quần túm lại, chạy ra. Mà mắc nó nóng quá[25], nên đứng nhảy lên nhảy xuống hoài. Con mẻ thấy tức cưởi hỏi: Làm gì mà điên vậy? Đứng nhảy cà tứng đó? Nó mới nói: Tao mừng mầy đi chợ về[26].
22. Hai anh sợ vợ.
Hai thằng cha kia hay sợ vợ, ở kế một bên nhau. Bữa nọ phơi đồ, sao để quên mưa ướt đi. Con vợ nó mắc lục đục[27] trong bếp, nhớ trực[28] (tr. 34) lại đồ phơi ngoài sào, thì hối nó ra mà lấy vô. Con mẻ nó mắng nó nhiếc, rồi nó xỉ vả nó lại vác cây nó đập cho, chạy mất.
Qua bên nhà anh kia, ở bển nói chuyện. Người kia hỏi: Chớ giống gì, mà chỉ mắng, chỉ chưởi làm om bển đi vậy?
– Tôi quên đem đồ vô, nó rầy tôi.
– Tốt kiếp thì thôi thê[29]! Anh đó, chới tôi ấy, thì...
Con vợ nó nghe nổi xung[30], ở trỏng[31] xách cây chạy ra hỏi: Chớ tôi...thì...sao?
Thằng chồng sợ, nói:
_ Không mà, tao nói: Anh đó chớ, chớ tôi, thì tôi đem vô trước hồi chưa mưa kia chớ.
23. Mẹ chồng nàng dâu ăn vụng.
Bà mẹ nấu chè ăn trưa chơi[32], mà đợi lâu lắm: thèm quá, mới lén mới lấy một chén bưng lên trên bồ lúa[33] ngồi ăn, kẻo con dâu ngó thấy.
Con dâu đói bụng thét[34], ngó quanh ngó quất[35] không có ai, mới lén bưng một chén đem đi giấu mà ăn. Trong nhà có một chỗ vựa lúa là kín mà thôi, nên nó lên đó mà ăn, kẻo mẹ chồng ngó thấy. Ai ngờ đi trờm tới[36] đụng lấy bà mẹ đang ngồi ăn chè!
Bả mắc cỡ hỏi:
_ Con bưng chè đi đâu (tr. 35) vậy?
Con dâu lanh, nói:
_ Tôi tưởng mẹ đã ăn gần hết, tôi múc đem thêm cho mẹ sớt[37].
Kỳ thật là hai người ăn vụng[38].
[1] Cũng có thằng khác… Lại là cách nói khi dễ diễn viên hát bội như bài trên. Tư tưởng xướng ca vô loại đến thời nầy vẫn còn…
[2] Ít đàng: Vài đường cày. Ruộng, cày bắt từ đầu nầy tới đầu kia là một đường. Mới cày ít đàng là không cày được bao nhiêu.
[3] Nổi thần hung: Nổi giận.
[4] Xóc tâm (nói): Nói chạm khiến người ta phát giận mà khó thể lên tiếng. HTC có từ nói xóc óc mà không có từ nói xóc tâm.
[5] Trong khi diễn tuồng hát bội, phía dưới khán quan người ta chọn ông nào có vai vế ở địa phương và biết rành hát bội được vinh dự cầm chầu để đánh trống thưởng. Khi diễn viên diễn hay hát hay thì người cầm chầu gỏ vào tang trống (thành trống) để chầu hay đánh vào mặt trống để thưởng. Nên nhớ rằng mặt trống lúc trước được làm bằn gda trâu thuộc…
[6] Điếc lác: Điếc.
[7] Năng: Thường.
[8] Mới tới nhậm: Mới đến nơi nhận việc cai trị.
[9] Chẳng lành thì chớ: Bị xui xẻo.
[10] Quở: Rầy.
[11] Ngang quá ghẹ: Con ghẹ, cua bò ngang chớ không bò tới nên người ta nói nó là ngang. Nay nói ngang như/hơn cua.
[12] Dễ ngươi: Coi thường, lờn mặt.
[13] Cờ bơ cờ bấc (đánh): theo văn cảnh ở đây thì ta có thể cắt nghĩa là: Đánh cho te tua… HTC viết nhóm từ nầy cách khác hơn và giải thích cách khác. Cù bơ cù bất: Bộ tất bất nghèo nàn, không chỗ nương dựa.
[14] Lếu: Làm chuyện lăng nhăng, không đúng.
[15] Leng keng: Thú thiệt là tôi không biết nghĩa từ nầy. Theo văn cảnh thì đây có thể là chữ lơn tơn đã bị đọc theo âm miền ngoài. Nhưng sao Trương Vĩnh Ký lại viết theo âm của miền ngoài? Hơi khó hiểu. Cần có người cao kiến.
[16] Mét: Mách lại chuyện gì đó cho người lớn về việc quấy của ai.
[17] Quạu quọ: HTC cắt nghĩa từ nầy rất đạt. Quạu quọ: hay giận, hay gây, chuyện lành sanh dữ , tuồng mặt không vui vẻ.
[18] Lảng tai: Tai bị bịnh nghe không rõ, tiếng được tiếng mất.
[19] Khuấy chơi: Chọc phá nho nhỏ để mua vui. Chẳng hạn giấu đồ vật của ai cho người ta tìm đã rồi mới chỉ..…
[20] Nhảy cà tứng: Nhảy lên nhảy xuống vì vui mừng. Petrus Ký viết cà tứng hai lần trong bài nên không thể cho là in sai, nhưng tôi nghe nói cà tửng bao nhiêu năm nay. Dấu thinh theo thời gian biến đổi là thường.
[21] Con mẻ: Con mẹ ấy. Nay mấy từ kiểu nầy (thằng chả, ổng…) dùng cho người mình không ưa, không nói một cách bình thường như thời của Petrus Ký.
[22] Lùi (khoai lang): Nhét khoai lang vô trong đống than đương nóng để nướng. Thay vì đống than là đống tro đương nóng gọi là lùi tro. Hột mít lùi tro, ăn no té địt…(con nít hát chơi.)
[23] Lơn tơn: HTC, Lơn tơn: Bộ lật đật đi một mình. Lơn tơn xách gói đi theo. Lúc nhỏ tôi nghe người lớn hỏi: Mầy đi đâu mà lơn tơn đây? Chữ lơn tơn trong trường hợp nầy cắt nghĩa khác với HTC!
[24] Thấy bóng: Thấy dạng ở xa xa.
[25] Mà mắc nó nóng quá: Vì nó nóng quá. Lối nói xưa ở miền Nam ưa dùng từ mắc: Mắc cười mắc ỉa…, mắc coi chừng con nít…
[26] Vợ chồng ngày xưa thường mầy tao với nhau. Người bình dân ở trong đồng ruộng xa xôi hiện tại cũng còn dùng lối xưng hô nầy.
[27] Lục đục: Lúc thúc làm công chuyện dưới nhà bếp. HTC: Lục đục: Khua động; khua cái nầy động cái kia; bộ hay chuyển chệ; soạn sành khua động; xây ra xây vô ở trong nhà; chậm chạp. Ngày nay từ lục đục mang thêm nghĩa mới rộng hơn là vợ chồng xào xáo cơm chẳng lành canh chẳng ngọt.
[28] Nhớ trực: Giựt mình nhớ lại chuyện chưa hoàn thành, Nay có thể nói trực nhớ.
[29] Tốt kiếp thì thôi thê: Tiếng than chỉ bất hạnh, chẳng may. Chữ thê nhấn giọng nay đã không còn!
[30] Nổi xung: Nổi hung, phát giận. Từ hung biến thành từ xung chăng?
[31] Trỏng (ở trỏng): Ở trong ấy, trong đó.
[32] Cũng là một sanh hoạt đáng ghi của hơn thế kỷ trước.
[33] Bồ lúa: Đồ dựng lên để cho lúc khỏi tràn ra ngoài.
[34] Đói bụng thét: Thét là thúc tới, đói bụng thét là đói bụng nhiều, bắt muốn ăn.
[35] Ngó quanh ngó quất: Ngó chung quanh để tìm một chỗ vừa ý hoặc coi có ai để ý đến mình hay không.
[36] Trờm tới: Đi trờ tới. HTC cắt nghĩa là: Xơm tới, lố tới. Trong khi Xơm tới thì ông cắt nghĩa là Áp tới, xốc tới, xốc vào. Vậy thì ta có thể hiểu thêm rằng đi trờm tới là đi tới chỗ nào đó mà mình vô tình không chú ý đến chung quanh.
[37] Sớt: Đem từ phần nầy chia cho phần kia. Ở đây con dâu nói rằng mình đem ra để sớt bớt cho mẹ chồng, chị ta không nói bưng cho mẹ nguyên chén chè.
[38] Viết chuyện có giải thích kiểu nầy Petrus Ký muốn người đọc hiểu hơn nhưng làm cho kỷ thuật viết mất cái hay ho đi. Khuyết điểm nầy thấy nhiều trong tập Chuyện Đời Xưa.
.