(Chuyện 5, 6)
Quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký là quyển sách bán chạy nhứt của nhà văn nầy. In tới lui nhiều lần, năm 1914 đã in tới ngàn thứ chín. Những lần in không đề tái bản lần thứ mấy và in bao nhiêu thì phải nói là cơ man.
Tại sao quyển truyện mỏng nầy lại có sức hấp dẫn như vậy? chính là nhờ ông Trương khi viết đã đưa ra hai mục tiêu và đã làm gần như trọn vẹn
1. Giáo dục về luân lý. Người đọc cẩnthận sẽ thấy những bài học tốt cho cách ở đời, cách xử thế, ứng xử trong trạng huống cần thiết, đề phòng kẻ xấu, chớ cả tin..
2. Dùng tiếng Annam (Việt Nam) ròng. Trong toàn quyển chuyện không sự kiện làm văn chương, mặc dầu điều nầy không hẵn là xấu, mà chỉ có sự sử dụng tiếng Việt thường nhựt, với những từ ngữ của người bình dân. Người đọc đón nhận cũng vì lẽ đó.
Ngoài ra vì tác giả khéo léo cho thấy sinh hoạt của dân chúng có thể nói là cuối thế kỷ 19 nên đây là nguồn tư liệu dồi dào về những chi tiết của cuộc sống dân ta mà gần như ngày nay không thể thấy (ăn ong, ăn bánh lớ, cái chày mổ, sư làm đám, hầm bắt cọp, bắt chồn, tục mai dong, tục ở rể…).
Sách viết hơn trăm năm trước, bằng chữ của dân miền cực Nam nên chắc chắn là khó hiểu với phần đông người đọc hiện giờ. Sự chú giải những từ nầy là cần thiết nên quyển sách Chú Giải Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký có lý do để ra đời.
Nguy ễn Văn Sâm
Victorville, CA, tháng 11, 2016
5. Hai thầy đi làm đám
Hai anh thầy sãi[1] đi làm đám[2], người ta mời đi tụng kinh. Nổi mõ lên cốc cốc tụng một chặp, rồi ra nghỉ. Chủ đám[3] dọn cơm cho các thầy ra lót lòng[4]. Hai thầy làm bộ nhơn đức, không dám ăn cho no cho đã thèm, sợ bổn đạo[5] chê mình mê ăn. Lua[6] vài ba miếng, nước nôi xong xả[7], rồi vào cứ tụng kinh.
Khuya lại kiến cắn bụng[8], đi ngủ, nghĩ lại mới thèm mới tiếc. Nhắm chừng[9] chỗ để đồ ăn, phăng phăng rờ vách, mà lần tới đó kiếm chác, coi may có gặp chi đánh một bụng[10] cho no, mà về ngủ. Thầy kia thấy vậy cũng đánh mò theo[11]. (tr. 12) Ai hay đâu[12] xuống nhà dưới, lục đục đạp nhằm cái chày mổ[13], nó đập trên đầu thầy một cái bốp, đau quá sức; hai thầy ôm lấy đầu mà la, tưởng là ai đánh: Không, không phải tôi đâu! Thầy này đổ cho thầy kia: Tôi đi kiếm ngõ ra đi tiểu mà. Trong nhà nghe la thức dậy thắp đèn, lên coi thử giống gì[14], thấy hai thầy đang men[15] xuống bếp[16].
6. Thằng khờ đi mua vịt
Có một đứa dại[17] không biết làm nghề gì mà ăn, vợ con phiền hà, trong nhà thiếu thốn, mà người vợ khôn, hay lo chắc mót để dành[18] để dập[19] được bốn năm quan.
Bữa ấy con vợ mới biểu chồng lo đi mua hàng hóa gì, về mà bán cho té ra một hai đồng[20] mà chi độ[21]. Thằng chồng lãnh lấy tiền cột lưng ra đi, tính mua ít cặp vịt đem về cho nó đẻ ấp vài lứa[22], mà bán lấy lợi mà ăn. Đi bá vơ ngoài đồng[23], không biết đâu mà kiếm mà mua, đi một đỗi xa xa, mới ngó thấy hai đứa chăn trâu đang có chơi với nhau[24] gần một bên mé bàu sen[25]. Thấy một bầy le le ăn đó. Anh ta xăm xúi, lại hỏi: chớ bầy vịt của ai đó vậy? Hai thằng chăn trâu lanh[26], liền nói là của mình. Anh hỏi làm chi? – Hỏi (tr. 13) mua, chớ hỏi làm chi. – Muốn mua, thì bán cho. – Mấy? Hai anh chăn trâu thấy vác bó tiền[27], đâu cũng đặng chừng bốn năm quan; thì đòi năm quan. – Đó, đem tiền lại, đếm xỉa rồi[28], lùa mà bắt lấy. Hai đứa chăn trâu xách tiền đi mất.
Anh ta ở lại lùa đồng này qua đồng kia, lùa hoài lùa hũy, bắt không được con nào hết, mồ hôi mồ hám ướt[29] dầm dề, quần áo xăn tròn vo[30]. Lùa hết sức rồi lại rượt. Mệt đà le lưỡi[31]. Lật bật mặt trời đã xen lặn[32]. Anh ta hết sức, ngã lòng mới bỏ mà về, rầu rĩ quá chừng. Đã mất tiền, lại mệt mỏi, mà bắt không đặng con nào hết, lằm lũi[33] về nhà. Vợ hỏi chớ mua được giống gì[34]? Nó ngồi thở ra, rưng rưng nước mắt, tức mình mắc mớp[35] hai đứa chăn trâu nó gạt lớp[36] mình. Rồi mới kể lại đầu đuôi gốc ngọn[37] cho vợ nghe. Vợ mới mắng cho một cấp[38]. Chưởi thôi cũng đã mỏi miệng, ngồi gằm đầu[39] đó mà chịu.
[1] Thầy sãi: Sư trong chùa, để ý danh từ nầy, ngày nay không dùng nữa. Trong Chuyện Đời Xưa có vài ba bài châm chọc thầy sãi, tôi không cho là phỉ báng gì đạo Phật, mà chỉ vì các thầy hiện diện nhiều trong sinh hoạt xã hội lúc đó. Cha cố, không được nhắc đến vì thành phần nầy ngày đó không có bao nhiêu, sự hiện diện trong xã hội mờ nhạt nên không có mặt trong sách nầy. Tuồng San Hậu có hai sãi mầm là Đạo Chuối và Đạo Xôi làm chuyện sai quấy nhưng tuồng nầy được hoan nghinh từ bao nhiêu năm qua chứng tỏ người đọc biết phân biệt giữa đạo Phật và thành phần xấu làm nhơ danh đạo nói chung.
[2] Làm đám: Cúng đám, tụng kinh siêu độ cho người chết.
[3] Chủ đám: Chủ nhà, người chịu trách nhiệm trong việc tổ chức, chi tiêu của đám (quan, hôn, tang, tế) hôm đó.
[4] Lót lòng (ăn): Ăn uống chút đỉnh cho đở đói. Nay từ nầy chỉ có nghĩa là ăn sáng, điểm tâm. Đói bụng ăn giữ bữa ăn sơ sơ ba hột mà gọi là ăn lót lòng thì bị cho là nói trật…
[5] Bổn đạo: Tín hữu của một đạo nào đó.
[6] Lua: Và thức ăn vô miệng một cách mau lẹ, ăn uống vội vã. Thí dụ: Lua ba hột rồi còn có ra đồng kẻo trưa…
[7] Nước nôi xong xả: Trà nước xong xuôi.
[8] Kiến cắn bụng: Đói bụng, đói cồn cào như bị kiến cắn trong bụng.
[9] Nhắm chừng: Đồ chừng, đoán chừng, độ chừng.
[10] Đánh một bụng: Ăn uống cho thiệt no bụng.
[11] Đánh mò theo: Đi theo dấu, đi theo cách của người đi trước
[12] Ai hay đâu: Ai dè, ngờ đâu.
[13] Chày mổ: Chày giả gạo. HTC, Chày có cán cầm mà mổ xuống. Tôi cũng chưa hình dung chày mỗ thời Petrua Ký như thế nào. Xin ai đó chỉ giùm.
[14] Coi thử giống gì: Xem coi là cái gì, chuyện gì.
[15] Men: Đi rón rén, đi cẩn thận, đi lần lần theo, như men theo bờ ruộng bờ kinh, bờ đất, bờ rừng…
[16] Petrua Ký muốn đưa ra hình tượng con người ai cũng thế, khi đói thì phải kiếm gì đó để cho vô bụng. Nhưng lúc đói mà biết giữ ghìn tư cách thì đáng trọng hơn. Tôi từng nghe nhiều chuyện khí tiết của những thầy Tuyên Úy, Phật giáo cũng như Thiên Chúa giáo trong các trại tù gọi là Cải Tạo rất đáng khâm phục.
[17] Đứa dại: Người khờ khạo.
[18] Chắc mót để dành: Tiện tặng dành để phòng thân.
[19] Để dập: Để dành. HTC, Dành dập: Làm cho có ngằn, cần kiệm, giấu để; nhín nhúc. Từ để dập chưa thấy ở đâu khác, kể cả trong sách của Huình Tịnh Của hay Trương Minh Ký.
[20] Té ra một hai đồng: Sanh lời vài đồng.
[21] Chi độ: Tiêu dùng, xài.
[22] Lấy tiền cột lưng: Xưa tiền thường được đúc bằng kim loại, có lổ ở giữa, người ta xỏ dây số tiền cần mang đi rồi cột trong mình, thường là ngang lưng quần.
[23] Bá vơ (đi): Đi không có định hướng, chẳng cần biết tới đâu. HTC, Đi bá vơ: Đi bậy bạ, đi rông vát.
[24] Đang có chơi với nhau: Đương chơi đùa cùng nhau.
[25] Bàu sen: Bàu thường là hồ, có nước, tương đối nhỏ hơn đầm nhiều. Đầm thường là bùn, sình lầy, ít nước, thường có một loại chim sinh sống như đầm chim, đầm cò. Bàu, khác với đầm. Khu bàu sen tại Sàigòn ngày trước 1975 bị đổi thành đầm sen là do người ta không phân biệt được hai từ nầy. Người dân ở đây vẫn còn dùng từ bàu sen để chỉ vùng mình ở trước đây có hồ sen lớn, và đầm sen để chỉ khu vui chơi mới lập ở đó.
[26] Lanh: Không vặt, mau miệng.
[27] Bó tiền: Xâu tiền coi bộ hơi nặng.
[28] Đếm xỉa rồi (tiền): Đem tiền ra đến rồi trao cho ai xong xuôi để đổi lấy vật gì.
[29] Uớt, nguyên bản in sai thành ước.
[30] Xăn tròng vo: Xăn quần thiệt chặc khi lội nước.
[31] Mệt đà le lưỡi: Mệt quá thở không ra phải há miệng để thở.
[32] Lật bật mặt trời đã xen lặn: Chẳng bao lâu thì mặt trời đã lặn. Xế chiều, tối tới nơi.
[33] Lằm lủi: Cắm đầu cắm cổ mà đi. HTC, lằm lủi: Cứ lủi lủi đi tới một bề. Nguyên bản in lăm lũi, tôi nghĩ là in sai.
[34] Mua được giống gì?: Mua được thứ gì? Mua được gì?
[35] Mắc mớp: Bị gạt. Bị lừa.
[36] Gạt lớp: Gạt. Lừa, phỉnh…
[37] Kể lại đầu đuôi gốc ngọn: Kể lại chi tiết từ đầu đến cuối.
[38] Mắng cho một cấp: Chưởi một hồi.
[39] Gằm đầu: cúi đầu.