Hôm nay,  

Bước đột phá trong quan hệ Mỹ-Việt

4/15/201500:01:00(View: 6963)

Bước đột phá trong quan hệ Mỹ-Việt

The Diplomat (10-04-2015)

Tác giả: Alexander L. Vuving

Người dịch: Trần Văn Minh

14-04-2015
.

Một chuyến viếng thăm gần đây biểu hiện sự thay đổi bất ngờ trong quan hệ song phương.

Xuất hiện như một trong những mối quan hệ song phương quan trọng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã đạt được bước đột phá đáng kể trong thời gian gần đây. Dường như nằm dưới tầm nhắm của báo chí quốc tế, bước đột phá này đã được thực hiện trong chuyến viếng thăm Washington từ ngày 15 tới 20 tháng 3 của Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Trần Đại Quang. Có lẽ truyền thông ít quan tâm đến chuyến đi này vì nó được xem như sự trao đổi thường xuyên ở cấp bộ trưởng. Nhưng sứ mạng của ông Quang không phải bình thường, và nội dung cuộc hội đàm của ông cho thấy sự thay đổi về chất lượng trong quan hệ Mỹ-Việt.

Đứng đầu một trong hai bộ mạnh nhất trong chính quyền Việt Nam (bộ kia là Bộ Quốc phòng), ông Quang cũng là một thành viên chủ chốt trong tập đoàn lãnh đạo của Việt Nam, là Bộ Chính trị Đảng Cộng sản. Các nguồn tin tức Việt Nam thông báo rằng ông sang Hoa Kỳ chủ yếu với tư cách là thành viên của Bộ Chính trị và mục đích chính của chuyến đi nhằm chuẩn bị cho chuyến thăm đầu tiên vào tháng 6 của nhà lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng.

Điều bất thường đối với một bộ trưởng là ông Quang đã hội đàm với các quan chức cao cấp khác nhau của các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ, bao gồm không chỉ Bộ An ninh Nội địa và FBI, mà còn Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Hội đồng An ninh Quốc gia, Bộ Tư pháp và CIA. Ông Quang cũng đã gặp gỡ các nhà lập pháp cao cấp trong Quốc hội. Các chủ đề của cuộc hội đàm của ông đã vượt ra ngoài giới hạn của Bộ trưởng Bộ Công an và trải dài từ quốc phòng, an ninh tới thương mại và đầu tư. Nhân quyền cũng là một điểm quan trọng trong sự trao đổi của ông với đối tác Mỹ. Theo các nguồn tin từ Việt Nam, một phần quan trọng trong sứ mệnh của ông Quang là củng cố sự hỗ trợ của Mỹ cho Việt Nam trong tranh chấp ở Biển Đông và vấn đề an ninh khu vực.

Qua sự kiện cử ông Quang sang Mỹ, Bộ Chính trị ở Hà Nội đã gửi một thông điệp rõ ràng về thái độ của họ đối với kẻ thù cũ. Ông Quang đã được chọn để thực hiện chuyến đi chuẩn bị cho chuyến thăm của ông Trọng vì ông ta được lãnh tụ Đảng Cộng sản tin tưởng. Nhưng ông cũng là thủ lĩnh của lực lượng an ninh có trách nhiệm bảo vệ chế độ. Trong khả năng này, ông ta sẽ là một mục tiêu chính của các nhà phê bình nhân quyền tại Hoa Kỳ. Chuyến đi của ông Quang, là chuyến thăm chính thức đầu tiên của một bộ trưởng công an Việt Nam đến Mỹ, mang ý nghĩa rằng Hà Nội bây giờ tự tin để đối đầu với những chất vấn về ý thức hệ. Về phần mình, cử chỉ thân thiện của Washington đối với ông Quang đã giúp Hà Nội hạ thấp nhận thức về mối đe dọa của Hoa Kỳ.
.

Các mối quan hệ đã biến đổi

Chuyến đi Mỹ của ông Quang là chuyến đi mới nhất trong một loạt các cuộc họp những năm gần đây đã làm thay đổi bản chất mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Điều khởi động tiến trình này là chuyến thăm của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đến Hà Nội vào tháng 7 năm 2012. Trong chuyến đi đó, bà Clinton đã gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng và mời ông đến thăm Hoa Kỳ. Biểu tượng của những cử chỉ này là Washington chấp nhận sự khác biệt về ý thức hệ với chế độ Việt Nam và nhìn nhận Đảng Cộng sản cầm quyền của Việt Nam là một đối tác, và nhà cầm quyền ở Hà Nội đã phê chuẩn quan hệ đối tác này. Ý nghĩa lời mời của bà Clinton quan trọng đối với Hà Nội. Điều này gợi ý rằng mặc dù ở phía đối nghịch về lãnh vực ý thức hệ, Hoa Kỳ bây giờ cam kết một tình bạn nghiêm túc với Việt Nam. Trên thực tế, cuộc họp đã mở cửa cho sự giao lưu thực chất giữa chính phủ Mỹ và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chuyến thăm của bà Clinton đã mở đường cho việc thành lập mối hợp tác toàn diện Mỹ-Việt, đã được chính thức đưa ra một năm sau đó ở Washington tại hội nghị thượng đỉnh tháng 7 năm 2013 giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang. Trong khuôn khổ hợp tác này, Washington và Hà Nội cam kết tôn trọng “hệ thống chính trị, độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Theo nguyên tắc này, chương trình làm việc kêu gọi hợp tác trong một phạm vi với đầy đủ các lãnh vực, trải dài từ các mối quan hệ chính trị đến thương mại và kinh tế, từ công nghệ và giáo dục tới quốc phòng và an ninh, từ văn hóa, thể thao, du lịch tới các vấn đề chiến tranh di sản, và từ môi trường, sức khỏe cho đến việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền.

Vào đầu tháng 10 năm 2014, khi Ngoại trưởng John Kerry gặp Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, Hoa Kỳ tuyên bố quyết định dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận cung cấp vũ khí sát thương cho Việt Nam, để giúp cải thiện an ninh hàng hải. Lệnh cấm vận vũ khí là một tảng đá quan trọng rơi xuống đầu tiên về phía Mỹ trên con đường dẫn đến quan hệ Mỹ-Việt gần gũi hơn.
.

Một trở ngại khác về phía Việt Nam đã được gỡ bỏ khi Trần Đại Quang viếng thăm Washington năm nay. Khi trao đổi với các đối tác Mỹ, ông Quang khẳng định rằng Hà Nội sẽ cho phép tổ chức thiện nguyện Peace Corps của Mỹ hoạt động tại Việt Nam. Điều này đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong thái độ của chế độ cộng sản đối với kẻ thù ý thức hệ của họ. Năm năm trước, trong một tài liệu chính sách quan trọng của Cơ quan Tuyên giáo của Đảng Cộng sản, người gác cổng ý thức hệ của Việt Nam vẫn chỉ ra Peace Corps là một “thế lực thù địch” và một tổ chức chuyên về tuyên truyền và các hoạt động lật đổ chống lại chế độ cộng sản.

Hoa Kỳ và Cộng sản Việt Nam tiến tới quan hệ bình thường hóa một cách chậm chạp. Phải mất hai thập niên sau khi chiến tranh kết thúc để khôi phục lại quan hệ ngoại giao (năm 1995). Cần phải hai thập niên nữa sau đó để bình thường hóa hoàn toàn quan hệ. Chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Nguyễn Phú Trọng tới Washington vào tháng 6 sẽ là bước cuối cùng trong việc bình thường hóa này.
.

Cùng lợi ích

Trong khi Trung Quốc trở thành một yếu tố quan trọng trong việc làm co giãn quan hệ Mỹ-Việt, động lực chính giữ không cho Hà Nội và Washington tiến gần với nhau hơn là tâm lý và ý thức hệ chứ không phải vật chất. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các lợi ích chiến lược của Việt Nam và Hoa Kỳ hội tụ về điều ưu tiên cao nhất của hai nước trong một khu vực với môi trường hòa bình và ổn định, điều sẽ có lợi cho phát triển kinh tế. Từng là một thế lực của chủ nghĩa xét lại, Việt Nam đã trở thành nước ủng hộ sự nguyên trạng do Mỹ chủ trương. Về phần mình, Hoa Kỳ đã từ bỏ ý muốn làm suy yếu và cô lập Hà Nội và quan tâm tới những lợi ích với một Việt Nam thịnh vượng và giàu mạnh. Tuy nhiên, mỗi bên cảm thấy bên kia như là một mối đe dọa cho chính mình. Tại Hoa Kỳ, ký ức về sự thất bại trong chiến tranh Việt Nam và khái niệm tự thân của một quốc gia vô địch về sự tự do đã tạo nên những thế lực mạnh mẽ chống lại các mối quan hệ gần gũi hơn với Hà Nội. Ở Việt Nam, mong muốn duy trì chế độ và sự thống trị của tư tưởng chống phương Tây đã cản trở từng bước tiến tới tình hữu nghị với Washington.

Nỗ lực lâu dài của cả Hà Nội và Washington đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm nhận thức mối đe dọa nhau. Nhưng yếu tố quyết định mà trong những năm gần đây đã biến hai cựu thù thành bạn bè là sự xuất hiện của một mối đe dọa an ninh chung. Sự bành trướng lãnh hải của Bắc Kinh ở Biển Đông đã thay đổi những tính toán chiến lược cho cả Hà Nội và Washington. Đối mặt với một thách thức rất lớn từ Trung Quốc, Việt Nam và Hoa Kỳ hiện đang chuẩn bị để giảm nhẹ những bất đồng về ý thức hệ của họ để tập trung vào lợi ích chiến lược chung.

Bước đột phá đang mở ra cho một quan hệ đối tác chặt chẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thực sự xảy ra từng bước một. Bắt đầu với chuyến thăm của bà Hillary Clinton đến Hà Nội vào tháng 7 năm 2012 và sẽ kết thúc với chuyến thăm Washington của ông Nguyễn Phú Trọng vào mùa hè này. Trong khi tiến trình xảy ra chậm chạp, sự thay đổi thật là lớn. Một thập niên trước, các quan chức ở Hà Nội nói với tôi rằng, một cách không chính thức chính quyền của họ coi Trung Quốc là đồng minh chiến lược, trong khi chính thức không phải như vậy. Ngày nay, có sự hiểu ngầm rằng mối quan hệ của Việt Nam với Hoa Kỳ là đối tác toàn diện trong tên gọi nhưng là đối tác chiến lược trong nội dung.
.

Alexander L. Vuving là phó giáo sư tại Phân khoa An ninh của Trung tâm châu Á-Thái Bình Dương ở Honolulu. Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của riêng tác giả, không phản ánh quan điểm của Trung tâm châu Á-Thái Bình Dương, Bộ Quốc phòng, hoặc Chính phủ Hoa Kỳ.
.
,

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Việc tòa án New York sẽ công bố mức án của Donald Trump vào ngày 11 tháng 7 năm 2024 và kết quả của cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 5 tháng 11 năm 2024 là hai diễn biến nội chính trọng đại của nước Mỹ, nhưng cũng sẽ là thách thức mới dành cho các nước khắp thế giới. Nhiều nước đang quan tâm, theo dõi và chuẩn bị tìm cách đối phó, trong đó có cả châu Âu.
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) có nhiều chứng bệnh nan y vì chúng là máu thịt của cán bộ, đảng viên. Chúng tồn tại và sinh sôi nẩy nở thường xuyên từ thời ông Hồ Chí Minh còn sống. Đứng đầu trong số này là chứng “chủ nghĩa cá nhân” đã đẻ ra tham nhũng, tiêu cực và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Tôi may mắn được bằng hữu gửi cho cuốn băng ghi âm buổi nói chuyện (“Định Hướng Tương Lai Với Thế Hệ Tăng Sĩ Trẻ Ngày Nay”) của Thích Tuệ Sỹ, tại chùa Từ Hiếu. Khi đề cập đến sự “căng thẳng” giữa quý vị sư tăng bên Viện Hóa Đạo và nhà đương cuộc Hà Nội, về quyết định khai sinh ra Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh – vào năm 1981 – Hòa Thượng có nhắc lại lời phát ngôn (rất độc đáo và thú vị) của một vị tướng lãnh trong của lực lượng công an
Nỗi buồn tận huyệt của những đầu óc cải cách lớn nhất của dân tộc cũng giống như nỗi lòng của người mẹ khi thấy đàn con ngày càng suy kiệt. Mà những thách thức họ từng đối phó cũng chính là chướng ngại của người mẹ vì sự nhỏ nhen, ghen tuông của những thứ “cha/dượng” nhỏ nhen, thậm chí chỉ đơn thuần là thứ tiểu nhân mơ làm cha, làm dượng.
Nhà báo thạo tin nội bộ đảng CSVN. Huy Đức (Trương Huy San, Osin Huy Đức) và Luật sư Trần Đình Triển, chuyên bênh vực Dân oan bị bắt tạm giam, theo tin chính thức của nhà nước CSVN ngày 07/06/2024...
Quý vị nghĩ sao nếu có người nói với quý vị rằng chính phủ và giới truyền thông Hoa Kỳ đang bị kiểm soát bởi một băng nhóm bí mật, nhóm người này tôn thờ ma quỷ và đứng sau hàng loạt các vụ bắt cóc trẻ em? Theo một cuộc khảo sát gần đây, 17% người dân Hoa Kỳ tin rằng thuyết âm mưu này là có thật.
Ngày 30 tháng 5, một bồi thẩm đoàn ở New York kết luận, cựu Tống thống Donald Trump phạm tất cả 34 tội danh. Đây là một sự kiện chưa từng xảy ra trong lịch sử nước Mỹ, khi lần đầu tiên một cựu tổng thống bị tuyên án nhiều tội đại hình trong một vụ án hình sự. Ông Trump bị kết tội làm làm giả hồ sơ kinh doanh để che giấu các khoản khoản thanh toán tiền bịt miệng cho cựu ngôi sao phim khiêu dâm Stormy Daniels, nhằm mục đích ém nhẹm các thông tin bất lợi trước cuộc bầu cử năm 2016, để cử tri bỏ phiếu cho ông ta.
Hôm rồi, cháu Út hỏi: Người mình hay nói “phải sống đàng hoàng tử tế”. Thế nào là “đàng hoàng”, hả bố ? Tôi lúng túng không biết trả lời sao cho gọn gàng và dễ hiểu nên đành phải kể lại cho con nghe mẩu chuyện ngăn ngắn, của một nhà báo lẫy lừng (Anh Ba Sàm) đọc được qua Thông Tấn Xã Vỉa Hè: “Sau 1975, có những thứ mà Sài Gòn, miền Nam làm cho hắn rất lạ và không thể quên. Một đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó hai bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không. Quê quá, phải dừng theo!”
Nếu cái gì cũng có bước khởi đầu của nó thì -- ngoài công việc thường ngày là quan sát hành động của từng con người để có một phán xét cuối cùng vào thời điểm thích hợp -- đâu là việc làm đầu tiên của Thượng Đế? Câu trả lời, theo một câu chuyện chỉ để cười chơi, rất thích hợp với bộ máy chuyên tạo nên cảnh rối ren hỗn loạn trên đất nước chúng ta. Cái câu chuyện về một cảnh trà dư tửu hậu khi những nhà chức nghiệp cãi nhau rằng nghề của ai có trước, dựa trên những tín lý từ bộ kinh Cựu Uớc, đặc biệt là chương Sáng Thế Ký.
Đảng CSVN có nhiều chứng bệnh lây nhiễm trong thời kỳ “đổi mới” như tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm và chia rẽ, nhưng 3 chứng “nhận vơ”, “lười lao động” và “lười làm việc” của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đã khiến Đảng lo sợ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.