Hôm nay,  

Ngày Buồn Nhất Đời Tôi

04/04/201500:01:00(Xem: 7249)
Ngày Buồn Nhất Đời Tôi

Huy Vũ
           
Trong đời sống của mỗi người, thường có nhiều ngày buồn, song trong những ngày buồn ấy, tất phải có một ngày buồn nhiều hơn những ngày buồn khác, và ta có thể gọi ngày ấy là ngày buồn nhất đời. Vâng, tôi cũng có một ngày buồn như thế, và tôi gọi ngày đó là “Ngày Buồn Nhất Đời Tôi.” Và nếu có một bạn trẻ, kính lão đắc thọ nào đó, thấy tôi già quá cỡ thợ mộc, nên cắc cớ hỏi: “Cụ ơi, ngày buồn nhất trong đời cụ là ngày nào?” Tôi sẽ không do dự một ly ông cụ nào hết để trả lời ngay rằng: “Ngày 30-04-1975.”
 
Tính từ ngày ấy đến nay, đã bốn mươi năm vật đổi sao dời, song nó dường như vẫn còn mới nguyên trong lòng tôi. Lúc ấy tôi là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và đơn vị tôi phục vụ là Tiểu Khu Châu Đốc.
 
Khoảng 9 giờ sáng ngày hôm ấy, từ nhiệm sở, tôi trở về nhà riêng trong khu cư xá sĩ quan, nằm sau Tòa Án. Hôm ấy là một ngày đẹp trời ở Thị Xã Châu Đốc.  Ánh nắng chan hòa trải dài trên dòng sông Hậu. Chim tung tăng nhẩy nhót trong những chòm cây. Bướm lòng vòng lượn trên những đám cỏ. Xe cộ tấp nập ngược xuôi trên đường Gia Long song song với dòng sông Hậu.
 
Bước vào nhà, là tôi mở ngay radio để nghe tin chiến sự. Ít phút sau, đài Phát Thanh Sàigòn thông báo:
 
Xin chú ý ! Xin chú ý ! Xin đồng bào chú ý ! Tổng Thống Dương Văn Minh sẽ ngỏ lời cùng đồng bào. Xin theo dõi.” 
 
Dựa vào tình hình chiến sự lúc ấy, tôi tiên đoán vị Tân Tổng Thống, kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi, sẽ tuyên bố TỔ QUỐC LÂM NGUY, rồi kêu gọi toàn dân và toàn quân đoàn kết CHIẾN ĐẤU ĐẾN GIỌT MÁU CUỐI CÙNG. Ngồi vào bàn ăn, vừa ăn vừa chờ đón nhận những lời “gang thép” của vị Tân Tổng Thống. Chẳng bao lâu sau từ chiếc radio phát ra:
 
Tổng Thống chính quyền Sài Gòn kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hạ vũ khí, đầu hàng vô điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố, chính quyền Saigòn từ trung ương đến điạ phương, trao lại cho chính quyền Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam.” 
 
Vì không ngờ lại là lệnh buông súng đầu hàng, khiến tôi ngẩn ngơ, ngỡ ngàng, hụt hẫng, chới với. Miếng bánh mì đang nhai trong miệng, bỗng tắc ngẽn nơi cuống họng. Đứng bật dậy, tôi lảo đảo bước tới chiếc giường, rồi thẩy mình lên đó, đau đớn, buồn bã, vật vã, rã rời. 
 
Khi bố tôi mất vào năm 1957, và mẹ tôi qua đời vào năm 1962, tôi buồn đến nỗi, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, nhưng chưa đến nỗi quyên sinh.
 
Khi người tôi yêu lên xe hoa về nhà chồng, tôi cũng buồn man mác, đi đi, lại lại lòng vòng trong phòng như một cái xác không hồn, song chưa hề nghĩ tới việc “mua ngay thuốc chuột uống cho rồi đời.”
 
Khi thi tú tài và cử nhân tôi cũng rớt lên rớt xuống, và sau mỗi lần hỏng thi tôi cũng buồn đến thúi ruột, song tôi thường lấy câu “học tài thi phận” để khuây dần buồn đau. Chưa một lần “hỏng thi” nào, tôi buồn đến nỗi phải than thân trách phận như cụ Tú Xương:
 
“Bụng buồn còn muốn nói năng chi
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi
Một việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm năm thân thế có ra gì”
 
Song ngày 30.04.75, sau khi nghe Tổng Thống Dương Văn Minh hạ lệnh buông súng đầu hàng, tôi buồn ghê gớm, buồn man mác, buồn tan tác cả cõi lòng. Nỗi buồn của tôi hôm ấy, không phải là nỗi buồn tầm thương như “chiều chủ nhật buồn nằm trong căn gác đìu hiu” mà buồn khủng khiếp, và buồn hơn cả tổng số những ngày buồn đã xẩy ra trong đời tôi trước đó cộng lại, buồn đến nỗi tôi muốn quyên sinh.
 
Giá hôm ấy tôi ở nhà một mình, chắc tôi đã kết thúc đời tôi bằng một viên đạn súng colt mà Tiểu Khu Châu Đốc đã cấp phát cho tôi theo cấp số, treo ngay ở đầu giường. Tôi có thừa can đảm cầm khẩu colt bắn một viên đạn vào đầu tự sát, song tôi lại thiếu can đảm thực hiện điều ấy trước mặt nhà tôi và ba đứa con thơ của tôi. 
 
Không buồn làm sao được, khi thấy hàng trăm ngàn người sống ở miền Nam như tôi đã không tiếc xương máu, chiến đấu chống lại  Cộng Sản Bắc Việt do ông Hồ và các đồng chí của ông lãnh đạo, để bảo vệ nhân dân miền Nam tiếp tục được sống trong tự do, dân chủ, hòa bình và no ấm. Cuộc chiến cao cả ấy đã thất bại trong đắng cay, nhục nhã, tức tưởi, ngậm ngùi. Tất cả những công lao và sự hy sinh to lớn đó, bỗng tan biến vào khoảng không, như “dã tràng xe cát biển Đông.”
 
Không buồn sao được, khi nhận ra rằng, cuộc sống của tôi, của vợ con tôi, của bạn bè tôi, của đồng đội tôi, của đồng bào miền Nam tôi sắp sửa bước vào một giai đoạn cực kỳ bi thảm và đen tối. Sở dĩ tôi nhận ra được điều này, không phải vì tôi quá bi quan hay hoang tưởng với hiện tình đất nước, mà vì những gì chính tai tôi đã nghe, chính mắt tôi đã thấy, và chính gia đình tôi và thân nhân của tôi đã phải gánh chịu, trong suốt thời gian mười năm sống trong vùng, được gọi là vùng “kháng chiến” với ông Hồ và các đồng chí của ông ở miền Bắc trước năm 1954.
 
Vâng, tôi đã thấy, ngay sau khi cướp được chính quyền từ tay người Nhật, ông Hồ và các đồng chí của ông đã giết một cách không thương tiếc hàng ngàn người mà họ cho là chó săn của Nhật, tay sai của Pháp, tay chân của triều đình phong kiến.  Trong số này, có những nhà văn, nhà báo, nhà giáo nổi tiếng như Phạm Quỳnh (1892-1945), Tạ Thu Thâu (1906-1945), Dương Quảng Hàm (1898-1946),  Khái Hưng (1896-1947)  v..v..
 
Vâng, tôi đã thấy ông Hồ và các đồng chí của ông bắt cóc và thủ tiêu hàng nghìn người mà họ coi là thành phần phản động, bằng nhiều hình thức vô cùng dã man tàn ác, như trói chân tay bỏ vào bao bố, hay cột vào một thanh tà-vẹt rồi thả xuống dòng sông hay ao hồ.
 
Vâng, tôi đã thấy, ông Hồ và tay chân của ông bắt bớ, giam cầm và giết hại hàng trăm ngàn người được cho là đảng viên của các đảng phái quốc gia, là một lực lượng cản đường ngăn lối họ tiến nhanh tiến mạnh lên Xã Hội Chủ Nghĩa, nên phải giết để trừ hậu họa.
 
Vâng, tôi đã thấy, sau khi giành được nhng thắng lợi to lớn về quân sự trên đất Bắc, ông Hồ và các đồng chí của ông tin rằng ngày chiến thắng cuối cùng đã gần kề, nên đã cho thực thi ngay cuộc Cách Mạng Ruộng Đất, ĐÀO TẬN GỐC, TRỐC TẬN RỄ thành phần TRÍ – PHÚ – ĐỊA – HÀO. Đau buồn thay, những người mà ông Hồ và tay chân của ông giết hại, lại là những người đã đóng góp công sức nhiều nhất cho sự thành công của ông Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.  Trong cuộc cách mạng “Trời Long Đất Lở” này, ông Hồ và đồng bọn đã giết khoảng hai trăm ngàn Trí, Phú, Địa, Hào và tịch thu hàng triệu mẫu ruộng của họ để chia cho nông dân nghèo. Song khốn nạn thay, chính những người dân nghèo được chia ruộng này, cũng bị ông Hồ và các đồng chí của ông lường gạt một cách cay đắng, vì số ruộng đất mà họ được chia và số ruộng ít ỏi mà họ có thể có trước đó, chỉ một vài năm sau đều phải cống nạp vào hợp tác xã. Người nông dân nghèo tay trắng lại trở về với trắng tay, và phải đi làm thuê cho hợp tác xã, tính giờ trả công rẻ mạt, nên phải sống trong cảnh bần hàn đói rách hơn cả những ngày bị “địa chủ bóc lột” trước đây. Họ đã mô tả việc đi làm thuê của họ cho hợp tác xã bằng những lời lẽ vô cùng chua chát:
 
Đi làm hợp tác hợp te
 Không đủ miếng giẻ mà che cái lờ
 
Vâng, qua những tên bộ đội cộng sản Bắc Việt bị bắt làm tù binh ở Tiểu Khu hay ra hồi chánh tại Ty Chiêu Hồi Châu Đốc vào những năm đầu thập niên 1970, tôi được biết thêm rằng, ông Hồ và các đồng chí của ông đã áp dụng chế độ hộ khẩu khắc nghiệt trên toàn lãnh thổ miền Bắc để quản lý và kiểm soát khâu sản xuất và phân phối thực phẩm. Từ củ khoai lang đến củ khoai mì, từ hạt bắp đến hạt gạo, từ lạng muối tới cân đường, từ mớ rau đến ký thịt vân vân… đều do đảng và nhà nước phân phối và cung cấp cho từng đầu người trong mỗi gia đinh. Số lượng thực phẩm được cung cấp, hay phân phối, hoặc bán cho mỗi miệng ăn tùy thuộc vào số lượng mà họ có trong kho, chứ không tùy thuộc vào nhu cầu của của người tiêu thụ. Người nào, nhà nào không được đảng và nhà nước phân phối và cung cấp thực phẩm là chắc chắn sẽ chết đói, vì không thể xin hay mua thực phẩm từ bất kỳ nguồn cung cấp nào khác.
 
Chế độ hộ khẩu đã trở thành một lợi khí vô cùng hữu hiệu trong việc ép buộc dân chúng miền Bắc phải triệt để tuân hành tất cả những gì mà đảng cộng sản muốn người dân phải làm. Đảng gọi phải dạ, đảng bảo phải vâng. Một nhà văn miền Bắc đã ví von (có lẽ hơi quá đáng) rằng, người miền Bắc vào những năm tháng ấy tương tự như những con chó ngoan ngoãn một mực tuân theo lời chủ: “Bảo vẫy đuôi, vẫy. Bảo sủa, sủa. Bảo cắn, cắn. Bảo ăn cứt, ăn.”
 
Con cái đến tuổi nhập ngũ hay đến lượt đi dân công, chính quyền địa phương không cần nhắc nhở, bố mẹ của chúng tự động ép buộc chúng phải “hăng hái” lên đường đi làm nhiệm vụ, dù họ biết rõ rằng, con cái họ ra đi “đã mấy người trở lại,”  song đó là chuyện “hạ hồi phân giải.”  Còn chuyện trước mắt là, cả gia đình già, trẻ, lớn bé sẽ chết đói, vì “sổ mua gạo” cho toàn gia đình bị cúp, nếu con em họ trốn tránh nghĩa vụ mà đảng và nhà nước đã “ưu ái” dành cho.
 
Vào ngày 30-04-1975, hầu hết những điều mà tôi đã nghe và đã thấy ông Hồ và các đồng chí cộng sản của ông thực thi ở miền Bắc sau năm 1945 cũng như sau năm năm 1954, lại một lần nữa lướt qua đầu tôi như một cuốn phim chiếu chậm. Hình ảnh, của cuốn phim chiếu chậm này đã thầm bảo tôi rằng, ông Lê Duẩn và đồng bọn sẽ áp dụng đường lối và chính sách mày cho miền Nam là điều chắc như đinh đóng cột vào những ngày sắp tới. Do đó tôi tin rắng, vào những ngày tới những người có dính líu hay liên hệ với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa như tôi và các bạn đồng ngũ của tôi sẽ bị thủ tiêu, giết hại hay bị tống vào những trại tù cải tạo cho chết dần chết mòn. Vợ con tôi và đồng bào miền Nam tôi sẽ khốn đốn ê chề và sẽ trở thành những con chó mới của cái đảng cộng sản chó đẻ. Nói một cách khác là, gia đình tôi và miền Nam của tôi sẽ bắt đầu bước vào một giai đoạn khốn nạn nhất và đen tối nhất chưa từng có trong lịch sử trường tồn của dân tộc.
 
Nỗi buồn của tôi vào ngày 30-04-1975, cao như núi, dài như sông, mênh mông như biển cả, nên tôi mạo muội đặt cho nó cái tên: “Ngày Buồn Nhất của Đời Tôi.
 
Huy Vũ

.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.