Hôm nay,  

Dân Chủ Tự Do và Dân Chủ Xã Hội

03/02/201500:00:00(Xem: 4191)

Hai khái niệm Dân chủ Tự do (Liberal Democracy) và Dân chủ Xã hội (Social Democracy) cần nên phân biệt vì tuy có nhiều điểm trùng hợp nhưng vẫn mang khác biệt khá xa. Dễ hiểu nhất khi nói Hoa Kỳ theo mô hình Dân chủ Tự do trong lúc các nước Âu Châu xây dựng Dân chủ Xã hội.

Nền Dân chủ Tự do đặt quyền tự do của cá nhân làm chính. Con người sinh ra được ban bố tự do tuyệt đối, nhưng rồi sau đó phải đánh đổi một phần khi chọn sống trong tập thể để được bảo vệ. Xã hội một khi thành hình cần có chính quyền để giữ trật tự ổn định, nhưng nhà nước không thể lợi dụng danh nghĩa vì lợi ích chung nhằm tước đoạt quyền tự do của cá nhân vì nhân loại không thể thăng hoa nếu đánh mất đi sáng tạo và tư tưởng.

Thí dụ dễ hiểu là người sống tiền sử có tự do tuyệt đối muốn ăn uống ngủ thức lúc nào cũng được, bù lại họ bị thiên nhiên và thú dữ đe dọa. Con người tiền sử chọn tập thể để bảo vệ lẩn nhau nên đành phải chấp nhận một số luật lệ quy định hành vi, cử chỉ và trách nhiệm khi sống chung đụng. Nhà nước được thành hình nhằm duy trì ổn định xã hội, nhưng lịch sử lại cho thấy chính nhà cầm quyền đôi khi trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất tước đoạt tự do, tài sản và sinh mạng của công dân – người đối với người còn tàn ác hung hiểm hơn cả loài thú dữ đối với nhau. Cho nên mô hình xã hội theo kiểu Dân chủ Tự do đặt nặng việc kiểm soát ngăn ngừa không để nhà nước lạm dụng lý lẻ phục vụ lợi ích chung mà cướp đi tự do của mỗi cá nhân khiến con người mất đi quyền mưu cầu hạnh phúc cho chính mình.

Những người Âu Châu bị trù dập trốn bỏ nước ra đi đến Bắc Mỹ, sau này nổi lên chống chính sách thuế khóa bất công của vua chúa nước Anh mà thành hình Hiệp Chúng Quốc. Dòng lịch sử khiến người Mỹ mang tâm lý ngờ vực không muốn xây dựng một chính quyền trung ương liên bang (federal government) mạnh. Đất nước Hoa Kỳ lại được khai phá bởi các cộng đồng (community) và từng cá nhân tiến về miền Tây trong khi nhà nước trợ giúp rất ít cho nên dân Mỹ tự hào về ý chí tự lực của mình. Tinh thần này phù hợp với Chủ nghĩa Tư bản vì tin rằng xã hội có được thịnh vượng chính là nhờ nổ lực của từng cá nhân, đến khi thành công mang lại lợi ích chung cho mọi người khác. Tài sản của cải chính do tư nhân tạo ra, còn chính quyền phải bị kềm chế vì nhà nước càng tập trung quyền hạn chỉ thêm can thiệp phiền hà sách nhiễu đối với công ăn việc làm của dân chúng mà thôi. Ai nắm túi tiền thì có quyền lực nên người Mỹ chống chính sách sưu cao thuế nặng ngay cả khi mục tiêu dùng vào các chương trình xã hội vì sẽ đem lại tính lười biếng ỷ lại. Sự trợ giúp lẫn nhau phải bắt nguồn từ cộng đồng và ý thức của cá nhân chớ không phải công việc của nhà nước, nên Hoa Kỳ mới thành hình truyền thống tự nguyện (volunteerism) và Xã hội Dân sự (civic society) rất đa dạng. Đây chính là tính ưu việt (exceptionalism) mà người Mỹ tự hào và được Tổng thống Ronald Reagan ví von như “a shining city on the hill” – ngọn hải đăng cho nhân loại.

Trái lại lịch sử Âu Châu gồm nhiều khu vực cai quản bởi các lãnh chúa, sau này mở mang thành nhiều quốc gia sống gần và luôn tranh chấp với nhau khiến người dân quen đi việc nộp thuế để được bảo vệ an ninh. Vì bị đe doạ thường trực nên dân chúng quen với quan niệm cho rằng quyền tự do cá nhân phải được cân bằng với lợi ích tập thể, do đó môi trường Âu Châu thuận lợi cho sự phát triển của nền Dân chủ Xã hội tức người dân cho phép nhà nước có nhiều trách nhiệm và quyền hạn hơn là ở Mỹ.


Trong nền Dân chủ Xã hội thì quyền tự do và tư hữu của mỗi cá nhân vẫn được tôn trọng, nhưng nhà nước dùng chính sách thuế khóa để san bằng phần nào chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. Do đó thuế ở Âu Châu cao hơn tại Hoa Kỳ, bù lại dân chúng được học hành miễn phí và hưởng nhiều lợi ích an sinh xã hội khác.

Không ít dân Mỹ chống lại quan điểm nói trên vì Khế ước Xã hội chẳng bao giờ cho phép nhà nước can thiệp để giới hạn tình trạng giàu nghèo chênh lệch. Trái lại ai làm nấy hưởng, lợi ít chung chỉ đến khi mỗi cá nhân có toàn quyền tự do sáng tạo và mưu cầu hạnh phúc, đến khi doanh nghiệp thành công mở mang mướn thêm công nhân thì xã hội được chia sẻ phúc lợi. Hơn nửa nhà nước càng nhiều quyền hành lại ưa lạm dụng. Trái với điều nhiều người thường nghĩ, dân Mỹ tuy theo cá nhân chủ nghĩa nhưng không ích kỷ bởi vì họ đóng góp giúp đỡ lẫn nhau qua tổ chức tôn giáo hay Xã hội Dân sự, tức là bằng sự tự nguyện và ý thức dân sự chớ không phải do nhà nước dạy dỗ hay ép buộc. Cho nên nhiều nhà tư bản như Bill Gates sắt thép trong kinh doanh nhưng sau đó lại để gần hết gia tài gần 50 tỷ USD cho từ thiện!

Tưởng cũng nên nhắc đến sự khác biệt giữa Dân chủ Xã hội và Xã hội Chủ nghĩa (Socialism). Xã hội Chủ nghĩa cũng bắt đầu từ chống bất công với phương án là tước đoạt quyền tư hữu của mọi người dân để rồi ai cũng giống ai không thể bóc lột lẫn nhau, nhà nước nắm trong tay mọi của cải xã hội sau đó ban phát phúc lợi đồng đều cho dân chúng. Trong thực tế nhà nước nắm mọi quyền hạn và tài sản nên giai cấp cầm quyền hưởng lợi trước, còn dân chúng làm theo năng suất hưởng theo nhu cầu nên chẳng ai dại gì làm hết sức mình cho người khác hưởng!

Sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt thì mô hình Tư bản Nhà nước (State Capitalism) lại được nhắc đến nhiều, chính yếu theo đà thành công vượt bực ở Trung Quốc (cho dù nhiều nước khác như Saudi Arabia từ trước đến nay vẫn theo mô hình này). Trong xã hội kiểu này người dân có được quyền tư hữu và kinh doanh nhưng nhà nước điều hướng nền kinh tế và cai quản các tài sản cùng lợì tức quan trọng trong quốc gia. Đến khi áp dụng vào thực tế thì Tư bản Nhà nước đi đôi với độc quyền lãnh đạo – ngay cả khi đa đảng thì vẫn một đảng cầm quyền vĩnh viễn – lý do bởi thế lực hay khối lợi ích nào đã nắm được tài sản quốc gia cũng chẳng dại gì chia sẻ cho cánh khác. Hơn thế đảng cầm quyền còn giới hạn quyền tự do của dân chúng để không bị chỉ trích phê phán. Ưu điểm của mô hình xã hội nói trên ở nơi huy động được nhân vật lực vào những mục tiêu chung nên tạo được nhiều bước tiến nhảy vọt nhất là trong khoảng thời gian đầu, do vậy thu hút được không ít trong số các quốc gia đang phát triển và các nhà độc tài. Khuyết điểm chính nơi không thể giải quyết được mâu thuẩn cơ bản một khi một nhà nước giữ nhiều quyền hạn liệu có sẽ bóp nghẹt tự do sáng tạo của cá nhân và sức sống của xã hội hay không để khiến đất nước rơi vào độc tài, bè phái, bất công và trì trệ dài lâu.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuối năm là lúc con người nhìn lại về giá trị cuộc sống. Một bài viết trên trang mạng The Conversation nêu vấn đề về những vực thẳm chính trị, các cuộc chiến tranh, áp bức… và con người vì thế cảm thấy vô vọng và bất lực khi chứng kiến những thế lực đen tối diễn ra khắp nơi trên thế giới. Liệu chúng ta có thể làm được điều gì đem lại thay đổi trước những bi hoại này hay không?
Danh hiệu “Nhân Vật Của Năm” do TIME bắt đầu từ năm 1927 – theo truyền thống được trao cho những người có ảnh hưởng đáng kể trong các sự kiện toàn cầu, từ chính trị đến văn hóa, môi trường, nghệ thuật. Những người được chọn đóng vai trò như một “thước đo phong vũ” về sức lan tỏa trong xã hội đương đại. Ảnh hưởng đó, theo tiêu chuẩn do chính TIME đề ra, có thể là “for better or for worse – làm cho thế giới tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn.”
Tiễn 2024, thế giới sẽ chào đón một năm mới 2025 mang theo cả bóng tối lẫn ánh sáng. Các cuộc xung đột, sự phân cực chính trị và những rủi ro khôn lường là lời nhắc nhở về sự bất ổn của thời đại. Nhưng đồng thời, khả năng phục hồi kinh tế, sự phát triển công nghệ, tinh thần hợp tác quốc tế, hơi thở và sự sống còn bất khuất của từng người mẹ, từng đứa trẻ vực dậy và vươn lên từ những đống gạch vụn đổ nát ở Ukraine, ở Gaza, ở Syria… cũng là cảm hứng và hy vọng cho tương lai nhân loại. Nhà văn Albert Camus đã viết: “Giữa mùa đông lạnh giá nhất, tôi tìm thấy, trong mình, một mùa hè bất khả chiến bại.”* Thế giới năm 2025, với tất cả những hỗn loạn, vẫn mang đến cơ hội để con người vượt qua và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, tử tế hơn. Đó cũng là lời chúc chân thành cuối năm của toàn ban biên tập Việt Báo gửi đến quý độc giả: một năm 2025 tràn trề cơ hội và hy vọng.
Trong ba năm học gần đây, PEN America đã ghi nhận hàng loạt trường hợp cấm sách xảy ra trên toàn nước Mỹ, đặc biệt trong các trường công lập. Những nỗ lực xóa bỏ một số câu chuyện và bản sắc khỏi thư viện trường học không chỉ gia tăng mà còn trở thành dấu hiệu của một sự chuyển đổi lớn hơn, đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tương lai của giáo dục công lập. Việc kiểm duyệt này phản ánh một xu hướng đáng lo ngại: sự tập trung vào việc kiểm soát nội dung văn hóa và giáo dục, thay vì khuyến khích học sinh tiếp cận kiến thức đa chiều.
Syria đang sống trong một bước ngoặt lịch sử sau khi chế độ độc tài sụp đổ nhanh chóng và Bashar al-Assad trốn sang Nga để tị nạn. Các nhóm nổi dậy chiến thắng đang cố gắng duy trì trật tự công cộng và thảo luận về các kịch bản cho tương lai. Lòng dân hân hoan về một khởi đầu mới đầy hứa hẹn pha trộn với những lo âu vì tương lai đất nước còn đầy bất trắc. Trong 54 năm qua, chế độ Assad đã cai trị đất nước như một tài sản riêng của gia đình và bảo vệ cho chế độ trường tồn là khẩu hiệu chung của giới thân cận.
Các số liệu gần đây cho thấy những thách thức mà nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt để phục hồi kinh tế cho năm 2025, khi quan hệ thương mại với thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc có thể xấu đi cùng lúc mức tiêu thụ trong nước vẫn sụt giảm. Và thật sự thì nền kinh tế Trung Quốc tệ đến mức nào? Việc đặt câu hỏi này ngày càng trở nên hợp lý khi Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng sản xuất trì trễ và tiền tệ mất giá kéo dài trong những năm gần đây. Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh dường như không muốn công khai toàn bộ thực trạng.
Chiều ngày Thứ Ba 17/12, tòa án New York kết án Luigi Mangione 11 tội danh, bao gồm tội giết người cấp độ 1, hai tội giết người cấp độ 2 cùng các tội danh khác về vũ khí và làm giả danh tính. Theo bản cáo trạng, một bồi thẩm đoàn ở Manhattan đã truy tố Mangione về tội giết người cấp độ hai là tội khủng bố. Tòa đã kết tội hành động của Luigi Mangione – một hành động nổi loạn khó có thể bào chữa dù đó là tiếng kêu cuối cùng của tuyệt vọng.
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.