Hôm nay,  

“Nước Rút” Và, “Đường Trường” Trong Hành Trình Thơ Nguyễn Lương Vỵ

12/27/201400:00:00(View: 5710)
1. Cách đây gần hai chục năm, cố thi sĩ Nguyên Sa, trong một bài viết về thơ của một bằng hữu, ông nhấn mạnh tới hai ý niệm “nước rút” và, “đường trường”. Tuy nhiên, tác giả “Áo lụa Hà Đông” không khai triển hai ý niệm này đặc biệt này.

Theo tôi, ý niệm “nước rút” dành cho một người làm thơ, có thể hiểu:

- Ở giai đoạn khởi hành, chìm, lẫn giữa những người đồng thời, cùng có mặt trong một lên đường ồ ạt, đông đảo thì, bằng vào khả năng thiên phú, hắn đã bứt phá, tách thoát khỏi đám đông, để lao mình về phía trước, như một thành tựu lẻ, hiếm. Nhưng, với những ai có ít nhiều kinh nghiệm chữ, nghĩa, đều không ngạc nhiên, bất ngờ khi thấy nửa chừng, những tinh anh sớm phát tiết kia, đã không còn hiện diện ở tiền trường của quảng trường thi ca. Hắn chỉ còn được nhớ tới trong một thời vang bóng.

(Một bằng hữu của tôi, gọi những nhà thơ ở trường hợp này là “Thi sĩ của một thời”).

Còn ý niệm “đường trường”, vẫn theo tôi, dành cho một người làm thơ, có thể hiểu:

- Trong cuộc trường chinh chữ, nghĩa, nhà thơ chẳng những không cho thấy sự đuối sức hay, lập lại chính mình với chiều dài thời gian, tính bằng nhiều thập niên. Mà, mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, cõi giới thi ca của hắn lại rạng rỡ, ngời sáng hơn; tiếp tục cống hiến người đọc, những đường kiếm huê dạng, mới; mở được những cánh cửa hình ảnh và, ngôn ngữ khác.

Ở trường hợp này, tôi cho họ là những thi sĩ tự thân có được một nội lực thâm hậu, (bên cạnh kinh nghiệm sử dụng chữ và, nghĩa). Nó không còn mang tính thiên phú hoặc…“trời cho” nữa. Đó chính là kết quả của những tháng, năm lao tác, thử nghiệm liên lủy, không ngơi nghỉ.

Hôm nay, sau gần hai mươi năm, cá nhân tôi thấy có một người làm thơ tương thích với hai ý niệm “nước rút” và, “đường trường” kia, đó là nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ.

.

blank
Bìa tập thơ “Năm Chữ Ngàn Câu” của Nguyễn Lương Vỵ

2. Nếu tính tới thời điểm cuối 2014 thì thi phẩm “Năm chữ ngàn câu” (1) của Nguyễn Lương Vỵ là thi phẩm thứ 9, kể từ tuyển tập “Âm vang và sắc mầu” xuất bản tại Saigon, 1991.

Những ai từng theo dõi hành trình thi ca của Nguyễn, hẳn còn nhớ, cuối thập niên 1960s, Nguyễn Lương Vỵ đã góp mặt trên tạp chí Văn, Saigon, với một bài thơ chỉ có 4 câu. Bài thơ hiện ra như một đường kiếm huê dạng, khác, lạ hẳn với những bài thơ cùng thời của những tác giả trẻ, mới nhập cuộc, mới lên đường, thời đó:

“Lung linh hồn quê cũ
Mây trắng phủ khắp trời
Nhớ trăng khô hết máu
Muôn trùng dặm núi ơi”.
(Nguyễn Lương Vỵ, “Nửa đêm thức dậy nhìn mây trắng”) (2)

Những người chú ý tới tiếng thơ lạ này, càng ngạc nhiên hơn nữa, khi được biết mấy câu thơ trên, được viết xuống, khi tác giả chỉ mới 16 tuổi.

Không lâu sau đó, những bài thơ kế tiếp của Nguyễn, vẫn cho thấy khả năng bứt phá, kiến tạo một hướng đi lẻ, hiếm, như:

“Biển đắp một tòa sương
Lạnh đôi bờ vú nhỏ
Nàng tắm trong tịch dương
Núi gầm lên khóc nhớ…”
(Nguyễn Lương Vỵ, “Cảm ứng”) (3)

Kể từ đấy, tới hôm nay, mỗi thi phẩm của Nguyễn Lương Vỵ là một thao-thiết mở ra những cánh cửa khác, cho ngôi nhà thi ca của mình.

Kể từ đấy, tới hôm nay, mỗi thi phẩm của Nguyễn Lương Vỵ là một đầu tư trí tuệ cật lực mở vào những chân trời mới.

Và, hôm nay, những người quan tâm tới cõi-giới thơ Nguyễn Lương Vỵ không còn lo lắng: Về đường trường tiếng thơ Nguyễn, có thể sẽ sớm rơi vào tình trạng đuối sức, “mất lửa”; khi qua gần 200 trang “Năm chữ ngàn câu” của ông, người đọc sẽ gặp được một cách dễ dàng (tới thảng thốt), những câu thơ lạ, mới như:

“Ngày rớt qua kẽ tay
Tháng rơi theo bóng ngày

Nghe năm cùng tháng tận
Nhìn bóng lửng hình lay
Sắc mầu im lắng nở
Âm vang nín lặng bay
Là lúc mùa giáp hạt
Em rớt qua kẽ tay”.
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Mùa giáp hạt”)

Hoặc:

Tuổi thơ cha khuất bóng
Tuổi già mẹ khóc con
Ta gặm câu thơ mòn
Chữ vô hồn vô nghĩa
Khói nhang rưng mộ địa
Em bay đi xa rồi
Trời đất vốn mồ côi
Vốn mịt mù huyễn mộng
Tiếng ma tru bi thống
Hay tiếng em gọi ta?!
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Hát khẽ bên mồ II”)

Hoặc nữa:

Câu thơ bay đi xa
Chẳng còn ai nhớ nữa
Chiều vàng vừa khép cửa
Đêm thu khoác vai ta
Chiếc lá khô nhớ nhà
Cây im không dám nhắc
Đất lạ trầm âm nhạc
Trời quen bóng phố gầy
Hỏi thăm nhau bóng lay
Tìm tay nhau bóng vỡ
(Nguyễn Lương Vỵ, trích “Không đề VIII”)

Vân vân…

.

3. Không kể thơ tự do, những thể thơ phổ cập tại quảng trường thi ca Việt, có thể liệt lê như: Năm chữ, bảy chữ, tám chữ và, lục bát!

Mỗi thể thơ, tự thân, đều có những ưu khuyết riêng và, sự đắc dụng của mỗi thể thơ, lại tùy nơi tài năng mỗi tác giả.

Với tôi, ba thể thơ dễ rơi vào tình trạng dư, thừa chữ là thơ bảy chữ, tám chữ và, lục bát. Thể thơ 6/8 này thường được các nhà thơ dùng để viết trường khúc hay, để thù tạc, đổi chác chút thực dụng! Có dễ vì thế mà, tôi nhớ, đã lâu, một tác giả từng viết xuống, đại ý, nếu phải đọc vài ngàn câu lục bát, để tìm cho được một câu lục bát hay thì, quá khổ cho người đọc!!! Nếu không muốn nói nó giống như một hình thức tra tấn trắng vậy…

(Tới giờ, chúng ta chỉ có duy nhất một Nguyễn Du, vị cha già của 6/8 trường thiên này mà thôi).

Đứng trước những thể thơ dễ dư, thừa chữ, thì thể thơ bốn và, năm chữ, được ghi nhận là hình thức tinh ròng, chắt lọc hơn cả.

Tuy nhiên, các nhà thơ của chúng ta hầu như ít ai muốn vũ lộng tài năng mình, với thể thơ 4 chữ - - Vì nó gần với “vè”. Nên hầu hết đều tìm đến với thơ 5 chữ.

Phải chăng cũng chính vì tính chắt lọc, kiệm chữ của thể thơ 5 chữ, mà nhiều kinh kệ đã chọn thể thơ này, để chuyển tải những ý nghĩa uyên áo của lẽ đạo?

Lại nữa, vẫn theo tôi, cũng chính vì tính chắt lọc, kiệm chữ của thể thơ 5 chữ, khiến rất ít thi sĩ chọn thể thơ này cho những trường thiên của họ.

Nói cách khác, nếu một thi sĩ không đủ hội đủ những yếu tố như nội lực, bề dầy kinh nghiệm sống, không kinh qua những thảm kịch dữ dội, khốc liệt trong đời thường …không ai muốn trở thành lố bịch hoặc, tự hủy mình bằng thử thách chinh phục đỉnh-núi-trường-thi-ngũ-ngôn.

Tôi nghĩ, tôi không hề bất cập khi kết luận: Nguyễn Lương Vỵ là người hội đủ những yếu tố cần thiết để chinh phục đỉnh-núi-trường-thi-ngũ-ngôn, vừa kể.

Nguyễn không chỉ có được cho mình một nội lực thi ca thâm hậu, một đam mê quyết liệt tới mức sẵn lòng đánh đổi mọi tiện nghi, may mắn (?) đời thường và, nhất là những thảm kịch, ngộ nhận mà Nguyễn đã trải qua tự những ngày thơ ấu tới hôm nay!…Tất cả vẫn còn đeo đẳng Nguyễn, như thể, đó mới chính là chiếc bóng, thẻ nhận dạng, song hành cùng Nguyễn trong cuộc trường chinh chữ, nghĩa mang tính sử-thi trên lộ trình thi ca của riêng ông…

Với tôi, sự kiện ấy còn mang tính nhất quán: Tính độc-hành của một Nguyễn Lương Vỵ, thi sĩ, từ khởi đầu, quá khứ; tới “Năm chữ ngàn câu”, hôm nay, khi ông đã bước qua tuổi sáu mươi - - Giữa nhân gian trợn trắng bi ai này.

Du Tử Lê,

(Calif. Dec. 2014)

……………

Chú thích:

(1) “Năm chữ ngàn câu”, Q&P hợp tác với nhà XB Sống, ấn hành, California, Dec. 2014.

(2) Trích Du Tử Lê, “Phác họa toàn cảnh sinh hoạt 20 năm VHNT miền Nam (1954-1975)”, quyển 1, trang 449. Người Việt Books ấn hành, California, 2014.

(3) Sđd.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong chiến tranh 1954-1975 vừa qua trên đất nước chúng ta, cả Bắc Việt Nam (BVN) và Nam Việt Nam (NVN) đều không sản xuất được võ khí và đều nhờ nước ngoài viện trợ. Nước viện trợ chính cho NVN là Hoa Kỳ; và một trong hai nước viện trợ chính cho BVN là Liên Xô. Những biến chuyển từ hai nước nầy ảnh hưởng rất lớn đến tình hình chiến tranh Việt Nam.
Nói một cách tóm tắt, hiểm hoạ lớn nhất của Việt Nam không phải là chế độ độc tài trong nước hay âm mưu xâm lấn biển đảo của Trung Quốc mà là sự dửng dưng của mọi người. Chính sự dửng dưng đến vô cảm của phần lớn dân chúng là điều đáng lo nhất hiện nay.
Bà Vivien Tsou, giám đốc Diễn đàn Phụ nữ Mỹ gốc Á Thái Bình Dương, cho biết: “Mặc dù trọng tâm là sự thù ghét người gốc Á, nhưng tất cả đều bắt nguồn từ quan điểm da trắng thượng đẳng, và bất cứ ai cũng có thể trở thành “Con dê tế thần bất cứ lúc nào”.
Tổ chức Người Bảo Vệ Nhân Quyền cho biết hiện có 276 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ tại Việt Nam. Nhà đương cuộc Hà Nội đối xử với họ ra sao? Tồ Chức Ân Xá Quốc Tế nhận định: “Các nhà tù ở Việt Nam có tiếng là quá đông và không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu. Vietnamese jails are notoriously overcrowded and fail to meet minimum international standards.”
Nếu so sánh ta sẽ thấy các cuộc biểu tình giữa Việt Nam và ba nước kia khác nhau: ở Việt Nam, yếu tố Trung Quốc là mầm mất nước, nguyên nhân chánh làm bùng phát các cuộc biểu tình. Còn ở Miến Điện, Hồng Kông và Thái Lan, nguyên nhân thúc đẩy giới trẻ xuống đường là tinh thần dân chủ tự do, chống độc tài.
Ma túy đang là tệ nạn gây nhức nhối cho toàn xã hội Việt Nam, nhưng Đảng và Nhà nước Cộng sản chỉ biết tập trung nhân lực và tiền bạc vào công tác bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lenin và làm sao để đảng được độc tài cầm quyền mãi mãi.
Tôi sinh ra ở Sài Gòn, nơi vẫn được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Chỉ tiếc có điều là ngay tại chỗ tôi mở mắt chào đời (Xóm Chiếu, Khánh Hội) thì lại không được danh giá hay ngọc ngà gì cho lắm.
Một ngày không có người Mexican có thể sẽ không dẫn đến tình trạng xáo trộn quá mức như cách bộ phim hài "A day without a Mexican" đã thể hiện nhưng quả thật là nước Mỹ sẽ rất khó khăn nếu thiếu vắng họ. Xã hội sẽ bớt phần nhộn nhịp vì sự tươi vui và tràn đầy sức sống của một sắc dân phần lớn là chân thật và chăm chỉ.
Công cuộc chống độc tài vẫn đang tiếp tục và đang trả những cái giá cần phải trả cho một tương lai tốt đẹp hơn. Chị là một trong số những người chấp nhận tự đóng góp vào những phí tổn đó cho toàn dân tộc. Chị là: NGUYỄN THÚY HẠNH.
Dưới thể chế Việt Nam Cộng Hòa người dân không chỉ bình đẳng về chính trị mà còn có cơ hội bình đẳng về kinh tế, nên mặc dù chiến tranh khoảng chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa những người ở thành thị với nhau không mấy khác biệt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.