Hôm nay,  

Trang Sử Việt: Trần Tự Khánh

04/02/201400:00:00(Xem: 5128)
(Lời tâm tình: Bài viết về “Sử Việt-Đất Việt” chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của đề tài. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt và Trang Đất Việt được đăng hằng tuần, luôn mong mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, niềm yêu thương quê hương và giữ gìn Việt ngữ cùng văn hóa Việt.)
________________

TRẦN TỰ KHÁNH
(175 - 1223)


Trần Tự Khánh là con trai thứ hai của Trần Lý, em Trần Thừa. Năm 1209, Lý Cao Tông nghe lời gian Phạm Du, giết trung thần Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc đem binh về kinh cứu chủ tướng, gây binh đao. Thái tử Sảm chạy đến nhà Trần Lý ở Hải Ấp. Họ Trần chiêu binh, khôi phục được kinh thành. Vua Huệ Tông phong Trần Tự Khánh làm Chương Thành hầu. Tuy dẹp được quân Quách Bốc, nhưng nhiều nơi chưa hàng phục triều đình. Đoàn Thượng cát cứ ở Hồng châu, tâu với vua Huệ Tông: “Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ làm phản”. Vua Huệ Tông tin là thật, hạ chiếu cho các đạo binh đánh Trần Tự Khánh, và giáng Nguyên phi Trần Thị Dung (em gái Tự Khánh) xuống làm Ngự nữ.

Đoàn Thượng và Đoàn Văn Lôi đem binh về kinh sư. Huệ Tông hạ chiếu phong tước hầu cho Đoàn Thượng. Họ Đoàn đem quân đánh họ Trần ở Hoàng Điểm. Trần Tự Khánh bị thua. Trần Tự Khánh phải liên kết với hào trưởng Nguyễn Tự, để tiêu diệt thế lực họ Đoàn đang quá mạnh. Đầu năm 1212, Tự Khánh và Nguyễn Tự chia nhau phạm vi chiếm giữ, lấy sông Lô, sông Đuống làm ranh giới, mỗi người giữ một bên. Lý Huệ Tông thấy thế lực họ Trần hùng hậu, chưa dám làm phật lòng Trần Tự Khánh. Nhưng Huệ Tông cùng Đàm Thái hậu và một số cận thần vẫn ngầm mưu diệt họ Trần. Đầu năm 1213, Thái hậu sai người liên lạc với tướng quân Phan Thế ở Phù Lạc, tướng quân Ngô Mãi ở Bắc Giang, để hẹn với nhau cùng khởi binh đánh Trần Tự Khánh.

Phan Thế và Ngô Mãi tiến quân đến cửa Đại Hưng (cửa nam thành Thăng Long). Trần Tự Khánh đang ở bến Đại Thông, nghe tin ấy, kéo quân mình đến kinh đô, vào cấm thành, đốt cầu Ngoạn Thiềm rồi lại trở về Đại Thông.

Sau khi chiếm được đồng bằng hạ lưu sông Hồng và sông Đáy, Tự Khánh phát triển thế lực lên Quốc Oai, là phạm vi kiểm soát của Nguyễn Tự, Tự đã chết, dụ hàng được phó tướng là Nguyễn Cuộc, thanh thế Tự Khánh hùng mạnh thêm.

Lý Huệ Tông và Thái sư Đàm Dĩ Mông (em vợ Lý Cao Tông) tự làm tướng, hẹn với quân Hồng châu cùng đánh Tự Khánh, đến Mễ Sở gặp quân của họ Trần do Vương Lê, Nguyễn Cải chỉ huy. Hai bên chưa giao chiến, quân của Lê, Cải mới hò reo tiến lên, quân triều đình sợ mà tan vỡ. Vương Lê, Nguyễn Cải bắt được thuyền rồng. Cánh quân Bắc Giang do thái sư Đàm Dĩ Mông thống xuất tới bến An Diên (Thường Tín, Hà Tây) thì bị quân của Trần Thừa đánh tan. Trong khi đấy, em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ cùng Trần Hiến Sâm ở tả ngạn cũng tiến đánh quân triều đình. Các tướng họ Trần khác là Phan Lân, Nguyễn Nộn từ Quốc Oai tiến đến Hồng châu đánh tan quân triều đình do Đoàn Cấm, Vũ Hốt chỉ huy. Lý Huệ Tông yếu thế, phải chạy lên Lạng Châu.

Trần Tự Khánh chiếm được kinh đô, ông sai người đem biểu lên Lạng Châu mời Lý Huệ Tông hồi triều, biểu rằng: “Dân tình lầm than vì trong nước nhiều kẻ làm loạn, thần khởi binh dẹp giặc, trừ khử tai họa, để yên dân. Đến như thân phận vua tôi, thần không dám phạm. Ngờ đâu, phải gánh lấy tội chuyên quyền đánh dẹp, để khiến cho xa giá phải gian nan, tự xét tội của thần thật đáng chết. Xin bệ hạ nguôi cơn giận dữ, quay xa giá về kinh để thỏa lòng mọi người mong mỏi”. Nhưng vua Huệ Tông không hồi triều.

Không đón được Lý Huệ Tông về kinh, Tự Khánh triệu tập các vương hầu, bá quan bàn việc cải lập. Tháng 4 năm 1214 (tháng 3 năm Giáp tuất) sai người đón một người con của vua Lý Anh Tông là Huệ Văn vương đưa lên ngôi ở điện Đại An, cải nguyên là Càn Ninh, hiệu là Nguyên Vương.

Tướng của Tự Khánh là Nguyễn Nộn đóng giữ ở Bắc Giang. Đoàn Thượng đem quân tấn công. Hai bên đánh nhau ở núi Đông Cứu (Bắc Ninh), Nguyễn Nộn giết được Đoàn Nguyễn. Sau đấy, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, Đỗ Bị ở Cam Giá (thuộc Sơn Tây), tách khỏi họ Trần, cát cứ vùng đất của mình. Do đó, thế lực họ Trần ở kinh thành Thăng Long bị suy yếu và bị uy hiếp. Tự Khánh lấy hết vàng bạc, của cải ở các kho, rồi phóng lửa đốt kinh đô, xong đưa vua mới là Càn Ninh xuống hành cung Lý Nhân (Hà Nam).


Nguyễn Nộn tiến quân đánh Tự Khánh. Huệ Tông đang ở Nam Sách về Thăng Long, phong Nguyễn Nộn tước hầu, để Nguyễn Nộn chống lại họ Trần. Đất nước lúc ấy chia thành thế chân vạc (3 thế lực lớn): Phía bắc là Nguyễn Nộn, phía đông là Đoàn Thượng, phía nam là Trần Tự Khánh.

Ngoài 3 lực lượng lớn này, còn có những thế lực nhỏ ở các địa phương: Ô Kim hầu Lý Bát ở đất Ô Kim (Hà Tây). Ở Quy Hóa (miền Yên Bái, Tuyên Quang) có họ Hà cha truyền con nối cai trị vùng đất này... Nước nhà loạn lạc khắp nơi.

Đầu năm 1214, Huệ Tông chạy đến hương Bình Hợp (Hà Tây), Trần Tự Khánh được hào trưởng địa phương là Đỗ Năng Tể giúp đỡ chiếm Bình Hợp, rồi đem quân bao vây Thăng Long, đốt cung điện. Huệ Tông phải dựng lều tranh để ở.

Đầu năm 1216, Huệ Tông lại lập Trần Thị Dung (trước bị giáng làm ngự nữ) làm Thuận Trinh phu nhân. Đàm Thái hậu ghét Trần Tự Khánh, thường chỉ Trần Thị Dung là bè đảng của giặc, bảo Huệ Tông bỏ Trần thị; còn bảo Trần thị phải tự sát, Huệ Tông ngăn lại. Đàm Thái hậu bỏ thuốc độc vào đồ ăn của Trần thị. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nửa và không lúc nào để Thuận Trinh phu nhân xa mình.

Tháng 4 năm 1216, lại nổi lên một lực lượng khác: Đỗ Át, Đỗ Nhuế ở Cảo Xã (Nhật Tảo, Hà Nội), khởi binh chống lại triều đình. Vua Huệ Tông cử Lý Bát đem quân đánh dẹp không xong. Vua Huệ Tông đành quay lại nhờ Trần Tự Khánh.

Trần Tự Khánh sai bộ tướng Vương Lê đem thủy quân đi đón vua Huệ Tông sang Cứu Liên. Đàm Thái hậu thì muốn giết Trần Thị Dung, sai người cầm chén thuốc độc bắt Phu nhân phải uống. Huệ Tông lại ngăn cản, rồi đêm ấy cùng với Phu nhân lẻn đến nhà tướng quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên, tướng của Tự Khánh là Vương Lê đem binh thuyền đến đón. Vua đến bãi Cứu Liên, truyền Trần Tự Khánh đến gặp.

Khi Trần Tự Khánh đón được Huệ Tông, bèn phế Nguyên vương, mà mình từng đưa lên ngôi xuống làm Huệ Văn vương.

Tháng 12 năm 1216, Trần Thị Dung được phong làm Hoàng hậu. Từ đó, họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng trong triều: Trần Tự Khánh được phong làm Thái úy; Trần Thừa được phong tước Liệt hầu làm Nội thị phán thủ; con cả Tự Khánh là Trần Hải được phong tước vương.

Chính sự ổn định, Tự Khánh ra quân đánh dẹp các nơi:

- Trần Tự Khánh đem quân đánh Hiền Tín vương Lý Bát chiếm lại đất Từ Liêm. Lý Bát thua chạy đến Vĩnh Phúc.

- Tự Khánh tiến đánh thế lực cát cứ của Đỗ Bị ở Cam Giá. Các thuộc ấp ở Phong châu đều ra hàng.

- Tháng 6 năm 1217, Đoàn Thượng thấy thế lực mình yếu, tạm quy hàng, được phong vương, vẫn giữ vùng Hồng châu.

- Tháng 6 năm 1218, Trần Tự Khánh gả em gái là Trần Tam Nương cho Hồng hầu Đoàn Văn Lôi, thu phục đất Hồng Châu.

- Tháng 5 năm 1220, Trần Tự Khánh tiến đánh Hà Cao ở Quy Hoá, Hà Cao không chống cự nổi, nên cùng vợ con thắt cổ chết. Từ đó cả miền Thượng Nguyên Lộ (Thái nguyên), Tam Đái Giang (Vĩnh Phúc) đều dẹp yên.

Trần Tự Khánh đã đánh dẹp hầu hết các thế lực cát cứ chống triều đình, chỉ còn Nguyễn Nộn ở Bắc Giang và Đoàn Thượng ở Hồng châu. Cuối năm 1223, Trần Tự Khánh qua đời lúc 49 tuổi, được truy phong là Kiến Quốc Đại vương. Quyền bính trong triều từ đấy do Trần Thủ Độ nắm giữ.

*- Thiết nghĩ: Thành lập vương triều nhà Trần, sử sách và người đời thường nói đến công lao của Trần Thủ Độ, nhưng Trần Tự Khánh là người đã gầy dựng và mở đường cho Trần Thủ Độ. Nhắc đến chiến công hiển hách đánh đuổi quân Nguyên hung hãn, phải kể đến vị anh hùng lỗi lạc Trần Hưng Đạo, vua Trần Nhân Tông và các tướng sĩ triều Trần lúc bấy giờ, điều ấy không sai. Nhưng có được cái kết quả huy hoàng này, nếu không có công lao của Trần Tự Khánh xây dựng nhà Trần từ buổi ban đầu, thì có lẽ không có chiến công ba lần đánh đuổi quân Nguyên lẫy lừng.

Chẳng phải chỉ riêng Trần Thủ Độ, được hưởng từ công lao người anh họ là Trần Tự Khánh; mà ngay cả Trần Thái Tông (Trần Cảnh) được ngai vàng, cũng phải kể đến sự thừa hưởng từ công lao của người chú ruột (Trần Tự Khánh).

Cảm phục: Trần Tự Khánh

Tài năng kiệt xuất, khởi nhà Trần
Xông xáo chiến trường, giỏi việc quân
Loạn lạc bốn phương, lo đánh dẹp
Cõi trần tận số, nhẹ nhàng thân!


Nguyễn Lộc Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.