Nguyễn Lộc Yên
(Lời tâm tình: Bài viết chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của đề tài. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt và Trang Đất Việt được đăng hằng tuần, luôn momg mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, quê hương).
.
LÝ THƯỜNG KIỆT
(1019 - 1105)
Lý Thường Kiệt, theo phả hệ của họ Ngô, ông tên thật là Ngô Tuấn, là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của Sứ quân Ngô Xương Xí (dòng dõi Ngô Quyền). Quê phường Thái Hòa, Thăng Long. Khi còn ít tuổi, được sung làm Hoàng môn chi hậu, cũng gọi là Thái giám theo hầu Lý Thái Tông vào năm 1041.
Năm 1061, người Mường ở biên giới quấy rối. Lý Thánh Tông cử Lý Thường Kiệt làm Kinh phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, được toàn quyền hành sự. Ông phủ dụ dân chúng, lấy được lòng người. Tất cả 5 châu 6 huyện, 24 động đều quy phục triều đình.
Năm 1069, ông theo vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt làm tiên phong đi đầu, truy bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Cuối cùng Chế Củ chịu hàng, dâng 3 châu (Bố chính, Ma Linh và Địa Lý) để được tha về nước.
Đời Tống Thần Tông (1068-1078), nhà Tống (Tàu) có Vương An Thạch là một chính trị gia có nhiều mưu chước và tham vọng, muốn cải tổ việc chính trị trong nước và mở rộng đất đai nhà Tống, cả phía bắc và phía nam. Họ Vương đã đặt ra: Phép “thanh miêu” là nhà nước cho nông dân vay khi lúa còn non, rồi trả vốn và lời khi lúa chín. Phép “bảo giáp” là bắt 10 nhà lập thành một bảo, mỗi bảo có hai người chỉ huy, tập luyện quân sự và phép “bảo mã” là giao ngựa cho các bảo nuôi, nếu ngựa chết thì bồi thường bằng tiền hay mua ngựa khác (tương đương) thay thế... Vì vậy dân Tàu ai oán. Khi Tống triều sai Binh bộ Thị lang Thẩm Khởi chuẩn bị xuất quân xâm lăng Đại Việt, Thẩm Khởi dụ dỗ các tù trưởng của Đại Việt ở gần biên giới theo Tống như: Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Nùng Thiện Mỹ ở Bắc Cạn...
Để trừ cuộc xâm lăng ấy, Đại Việt phải đánh Tống trước, tránh tang tóc bởi chiến tranh trên quê hương. Trước khi phạt Tống, Lý Thường Kiệt cho người Tàu biết Vương An Thạch đã đặt ra chính sự khó khăn, Đại Việt của nhà Lý muốn xóa bỏ chính sách hà khắc của Tống triều, để giúp nhân dân Tống khỏi gian nan.
Lý Thường Kiệt cùng phó tướng Tôn Đản đem mười vạn quân Bắc phạt. Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông), ông chỉ huy công thành, chỉ 3 ngày thành vỡ và 8.000 quân Tống bị tiêu diệt. Tôn Đản đem quân đánh Ung Châu (Nam Ninh, Quảng Tây), Ung Châu bị quân đại Việt vây ngặt, tướng Tàu là Trương Thủ Tiết đem quân từ Quế Châu cứu viện, bị Lý Thường Kiệt chận đánh tan tác, chém Trương Thủ Tiết rơi đầu. Ung Châu bị vây 40 ngày thì thành thất thủ, Tô Đam tự tử. Cảnh cáo nhà Tống xong, ông cho rút quân về nước phòng giữ. Năm 1076, tướng Tống là Quách Quỳ và Triệu Tiết đem quân đánh nước ta, khi giặc tiến đến sông Như Nguyệt (sông Cầu, Bắc Ninh) thì ông đem quân đánh đuổi và giết cả ngàn quân giặc. Nhưng chúng ỷ đông và quyết chí báo thù nên rất hung hãn. Lý Thường Kiệt làm bài thơ cho người vào đền thờ Trương Hát (có tài liệu nói rằng Trương Hát hiển linh và đọc bài thơ này giúp Đại Việt) đọc vang dội như giọng thần linh:
“Nam quốc san hà nam đế cư
Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Nghĩa là:
Phương Nam là đất của vua Nam
Trời định rõ ràng, sách đã ban
Nếu giặc hung hăn sang xâm lấn
Lẹ làng đánh đuổi, chốc tiêu tan
Nghe xong, quân ta nức lòng đánh giặc và đem về chiến thắng vẻ vang, đây là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước ta. Mặc dù chiến thắng, nhưng xét rằng, nhà Tống vì thể diện, sẽ tiếp tục chiến tranh, nhân dân sẽ tang tóc, nên giải hòa với Tống. Đại Việt cử sứ thần Đào Tôn Nguyên đưa 5 con voi đã thuần sang Tống, để nối lại bang giao 2 nước và đòi lại những châu ở Cao Bằng. Khi quân Tống chiếm được đất này đổi tên Quảng Nguyên là Thuận Châu, đặt 3000 quân để giữ. Tống triều ưng thuận với điều kiện là Lý triều phải trả lại cho Tống những người dân các châu Khâm, Liêm, Ung, quân Đại Việt đã bắt vào năm 1075, tất cả 221 người. Trước khi cho bọn này về Tàu. Lý triều cho thích vào trán, con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ “Thiên tử binh”, đàn ông từ 20 tuổi trở lên thích chữ “Đầu Nam Triều” và vàocánh tay trái đàn bà con gái hai chữ “Quan Khách”.
Năm 1103, Lý Giác làm phản ở Diễn Châu (Nghệ An) Lý Thường Kiệt đem quân đánh tan. Năm 1104, vua Chiêm là Chế Ma Na đánh lấy Ma Linh, Bố Chính, ông đã trên 80 tuổi, vẫn xin vua đem quân trừ giặc. Sau khi thắng trận trở về thời gian, vào tháng sáu năm Ất dậu (1105) thì ông mất, hưởng thọ 86 tuổi. Vua Lý Nhân Tông truy tặng ông Nhập nội Đô Tri Kiểm, hiệu Thái úy Bình chương quân Quốc trọng sự, Việt quốc công. Ông mất, ai ai cũng ngậm ngùi tiếc thương.
Trong thời nhà Lý, cuốn “An Nam Hành Quân Pháp” của Lý Thường Kiệt, rất nổi tiếng, trong sách “Vân đài loại ngữ,” sử gia Lê Quí Đôn ghi: “Sử nhà Tống đã viết, vua Tống sai Thái Diên Khánh đang làm tri phủ ở Hoạt Châu, tìm cuốn An Nam hành quân pháp, để quân Tống sẽ phỏng theo binh chế của An Nam” (An Nam hành quân pháp, xem trang Binh thư và Võ thuật VN).
*- Thiết nghĩ: Nguyên nhân nào khiến cho Lý Thường Kiệt, khi còn trẻ đã trở thành Thái giám là một thắc cả cổ kim?!. Tương truyền, ông trở thành Thái giám có thể do 2 lý do.
- Thứ nhất: Năm 1041, “Vua Thái Tông thấy Lý Thường Kiệt khi còn trẻ dung mạo đẹp đẽ, tài năng xuất chúng, nên khuyên tự thiến để tiện việc gần gũi nhà vua trong cung cấm.
- Thứ hai: Có tính thuyết phục hơn: Lý Thường Kiệt có một mối tình với Dương Hồng Hạc, Hồng Hạc cháu gọi Hoàng hậu Thiên Cảm (Hoàng hậu của vua Lý Thái Tông) bằng cô. Hoàng hậu Thiên Cảm muốn tạo thêm thế lực cho họ Dương, bà đem Hồng Hạc là cháu ruột gả cho Thái tử Lý Nhật Tôn, để sau này Hồng Hạc sẽ tiếp tục là Hoàng hậu của Lý triều.
Thái tử Nhật Tôn (sau này là Lý Thánh Tông) đã được cảnh giác là họ Dương đang lộng quyền, có thể sẽ soán ngôi, vì vậy Nhật Tôn luôn xa lánh Hồng Hạc. Trong khi ấy Nhật Tôn rất thân thiện với Thường Kiệt, còn nhận Thường Kiệt làm thiên tử nghĩa nam (con nuôi của vua). Hoàng hậu Thiên Cảm và Hồng Hạc lại nhờ Thường Kiệt khuyên Thái tử ở lại Đông cung, để gần gũi và “ban hồng ân” cho Hồng Hạc. Nhưng Thường Kiệt đã không nhận lời, nên bị họ đánh thuốc mê rồi bức hại trong một đợt tịnh thân các hoạn quan?! Có lẽ vì vậy, mà sau này ông đứng hẳn về phía bà Hoàng Thái phi (Ỷ Lan), chống lại bà Thượng Dương Hoàng hậu.
Lý Thường Kiệt, ai cũng biết là một nhà quân sự lỗi lạc, nhưng mấy ai biết ông còn là một chính trị gia xuất sắc. Khi biết nhà Tống manh nha xâm lăng Đại Việt. Tại Lý triều, ông khôi phục được hòa khí của nội bộ quý tộc. Bên ngoài, tạo sự đoàn kết với các tù trưởng của dân tộc thiểu số vùng Việt Bắc. Bình Chiêm nhanh chóng để ổn định mặt phía Nam. Kế đến, đang khi đem 10 vạn quân phạt Tống, ông cho bá cáo “lộ bố văn” (bài văn nói rõ lý do đánh Tống), cho dân Tống biết lý do phạt Tống lần này, là trừ chính sách sai lầm của Vương An Thạch, để giúp dân Tống. Vì vậy, quân Đại Việt viễn chinh lúc ấy, được sự ủng hộ của đồng bào Việt và dân Tống. Một chính trị gia xuất sắc nhự vậy, nếu Khổng Minh còn sống, chắc chắn phải bái phục Thường Kiệt, vì Khổng Minh chưa bao giờ biết mưu lược tài tình như thế.
Trong Việt sử tiêu án, sử gia Ngô Thì Sĩ đã cảm phục sách lược dụng binh của Lý thường Kiệt: “bày trận đường đường, kéo cờ chính chính, mười vạn thẳng sâu vào đất khách, phá quân ba châu như chẻ tre, lúc tới không ai dám địch, lúc rút quân không ai dám đuổi, dụng binh như thế, phải nói nước ta chưa từng có bao giờ”?. Đúng vậy, ông tiên liệu trước mỗi bước đi của quân thù; nên sau khi phạt Tống, rút quân về nước an toàn, liền củng cố phòng tuyến ở phía bắc sông Như Nguyệt, để phòng ngự giặc. Sau đấy, ông còn làm bài thơ “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ bất hủ để cổ vũ tinh thần binh sĩ, đem về chiến thắng huy hoàng.
Cảm phục: Lý Thường Kiệt
Mưu lược, binh thư chất chứa lòng
Lý triều tin cậy, há thong dong?!
“Tuyên ngôn” sâu sắc đời ghi nhớ
“Binh pháp” cao thâm thế thủ công
.
Nhanh nhẹn bình Chiêm, rầm rộ tiến
Lẹ làng phạt Tống, lẫy lừng trông
Anh hùng hiển hách lưu kim cổ!
Gương sáng, muôn đời rạng núi sông!
Nguyễn Lộc Yên
(Lời tâm tình: Bài viết chỉ khái quát, không đi sâu từng chi tiết của đề tài. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung đã biên soạn. Trang Sử Việt và Trang Đất Việt được đăng hằng tuần, luôn momg mỏi nhúm nhen tình tự dân tộc, quê hương).
.
LÝ THƯỜNG KIỆT
(1019 - 1105)
Lý Thường Kiệt, theo phả hệ của họ Ngô, ông tên thật là Ngô Tuấn, là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của Sứ quân Ngô Xương Xí (dòng dõi Ngô Quyền). Quê phường Thái Hòa, Thăng Long. Khi còn ít tuổi, được sung làm Hoàng môn chi hậu, cũng gọi là Thái giám theo hầu Lý Thái Tông vào năm 1041.
Năm 1061, người Mường ở biên giới quấy rối. Lý Thánh Tông cử Lý Thường Kiệt làm Kinh phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, được toàn quyền hành sự. Ông phủ dụ dân chúng, lấy được lòng người. Tất cả 5 châu 6 huyện, 24 động đều quy phục triều đình.
Năm 1069, ông theo vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt làm tiên phong đi đầu, truy bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Cuối cùng Chế Củ chịu hàng, dâng 3 châu (Bố chính, Ma Linh và Địa Lý) để được tha về nước.
Đời Tống Thần Tông (1068-1078), nhà Tống (Tàu) có Vương An Thạch là một chính trị gia có nhiều mưu chước và tham vọng, muốn cải tổ việc chính trị trong nước và mở rộng đất đai nhà Tống, cả phía bắc và phía nam. Họ Vương đã đặt ra: Phép “thanh miêu” là nhà nước cho nông dân vay khi lúa còn non, rồi trả vốn và lời khi lúa chín. Phép “bảo giáp” là bắt 10 nhà lập thành một bảo, mỗi bảo có hai người chỉ huy, tập luyện quân sự và phép “bảo mã” là giao ngựa cho các bảo nuôi, nếu ngựa chết thì bồi thường bằng tiền hay mua ngựa khác (tương đương) thay thế... Vì vậy dân Tàu ai oán. Khi Tống triều sai Binh bộ Thị lang Thẩm Khởi chuẩn bị xuất quân xâm lăng Đại Việt, Thẩm Khởi dụ dỗ các tù trưởng của Đại Việt ở gần biên giới theo Tống như: Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Nùng Thiện Mỹ ở Bắc Cạn...
Để trừ cuộc xâm lăng ấy, Đại Việt phải đánh Tống trước, tránh tang tóc bởi chiến tranh trên quê hương. Trước khi phạt Tống, Lý Thường Kiệt cho người Tàu biết Vương An Thạch đã đặt ra chính sự khó khăn, Đại Việt của nhà Lý muốn xóa bỏ chính sách hà khắc của Tống triều, để giúp nhân dân Tống khỏi gian nan.
Lý Thường Kiệt cùng phó tướng Tôn Đản đem mười vạn quân Bắc phạt. Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu và Liêm Châu (Quảng Đông), ông chỉ huy công thành, chỉ 3 ngày thành vỡ và 8.000 quân Tống bị tiêu diệt. Tôn Đản đem quân đánh Ung Châu (Nam Ninh, Quảng Tây), Ung Châu bị quân đại Việt vây ngặt, tướng Tàu là Trương Thủ Tiết đem quân từ Quế Châu cứu viện, bị Lý Thường Kiệt chận đánh tan tác, chém Trương Thủ Tiết rơi đầu. Ung Châu bị vây 40 ngày thì thành thất thủ, Tô Đam tự tử. Cảnh cáo nhà Tống xong, ông cho rút quân về nước phòng giữ. Năm 1076, tướng Tống là Quách Quỳ và Triệu Tiết đem quân đánh nước ta, khi giặc tiến đến sông Như Nguyệt (sông Cầu, Bắc Ninh) thì ông đem quân đánh đuổi và giết cả ngàn quân giặc. Nhưng chúng ỷ đông và quyết chí báo thù nên rất hung hãn. Lý Thường Kiệt làm bài thơ cho người vào đền thờ Trương Hát (có tài liệu nói rằng Trương Hát hiển linh và đọc bài thơ này giúp Đại Việt) đọc vang dội như giọng thần linh:
“Nam quốc san hà nam đế cư
Tiệt nhiên định mệnh tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Nghĩa là:
Phương Nam là đất của vua Nam
Trời định rõ ràng, sách đã ban
Nếu giặc hung hăn sang xâm lấn
Lẹ làng đánh đuổi, chốc tiêu tan
Nghe xong, quân ta nức lòng đánh giặc và đem về chiến thắng vẻ vang, đây là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước ta. Mặc dù chiến thắng, nhưng xét rằng, nhà Tống vì thể diện, sẽ tiếp tục chiến tranh, nhân dân sẽ tang tóc, nên giải hòa với Tống. Đại Việt cử sứ thần Đào Tôn Nguyên đưa 5 con voi đã thuần sang Tống, để nối lại bang giao 2 nước và đòi lại những châu ở Cao Bằng. Khi quân Tống chiếm được đất này đổi tên Quảng Nguyên là Thuận Châu, đặt 3000 quân để giữ. Tống triều ưng thuận với điều kiện là Lý triều phải trả lại cho Tống những người dân các châu Khâm, Liêm, Ung, quân Đại Việt đã bắt vào năm 1075, tất cả 221 người. Trước khi cho bọn này về Tàu. Lý triều cho thích vào trán, con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ “Thiên tử binh”, đàn ông từ 20 tuổi trở lên thích chữ “Đầu Nam Triều” và vàocánh tay trái đàn bà con gái hai chữ “Quan Khách”.
Năm 1103, Lý Giác làm phản ở Diễn Châu (Nghệ An) Lý Thường Kiệt đem quân đánh tan. Năm 1104, vua Chiêm là Chế Ma Na đánh lấy Ma Linh, Bố Chính, ông đã trên 80 tuổi, vẫn xin vua đem quân trừ giặc. Sau khi thắng trận trở về thời gian, vào tháng sáu năm Ất dậu (1105) thì ông mất, hưởng thọ 86 tuổi. Vua Lý Nhân Tông truy tặng ông Nhập nội Đô Tri Kiểm, hiệu Thái úy Bình chương quân Quốc trọng sự, Việt quốc công. Ông mất, ai ai cũng ngậm ngùi tiếc thương.
Trong thời nhà Lý, cuốn “An Nam Hành Quân Pháp” của Lý Thường Kiệt, rất nổi tiếng, trong sách “Vân đài loại ngữ,” sử gia Lê Quí Đôn ghi: “Sử nhà Tống đã viết, vua Tống sai Thái Diên Khánh đang làm tri phủ ở Hoạt Châu, tìm cuốn An Nam hành quân pháp, để quân Tống sẽ phỏng theo binh chế của An Nam” (An Nam hành quân pháp, xem trang Binh thư và Võ thuật VN).
*- Thiết nghĩ: Nguyên nhân nào khiến cho Lý Thường Kiệt, khi còn trẻ đã trở thành Thái giám là một thắc cả cổ kim?!. Tương truyền, ông trở thành Thái giám có thể do 2 lý do.
- Thứ nhất: Năm 1041, “Vua Thái Tông thấy Lý Thường Kiệt khi còn trẻ dung mạo đẹp đẽ, tài năng xuất chúng, nên khuyên tự thiến để tiện việc gần gũi nhà vua trong cung cấm.
- Thứ hai: Có tính thuyết phục hơn: Lý Thường Kiệt có một mối tình với Dương Hồng Hạc, Hồng Hạc cháu gọi Hoàng hậu Thiên Cảm (Hoàng hậu của vua Lý Thái Tông) bằng cô. Hoàng hậu Thiên Cảm muốn tạo thêm thế lực cho họ Dương, bà đem Hồng Hạc là cháu ruột gả cho Thái tử Lý Nhật Tôn, để sau này Hồng Hạc sẽ tiếp tục là Hoàng hậu của Lý triều.
Thái tử Nhật Tôn (sau này là Lý Thánh Tông) đã được cảnh giác là họ Dương đang lộng quyền, có thể sẽ soán ngôi, vì vậy Nhật Tôn luôn xa lánh Hồng Hạc. Trong khi ấy Nhật Tôn rất thân thiện với Thường Kiệt, còn nhận Thường Kiệt làm thiên tử nghĩa nam (con nuôi của vua). Hoàng hậu Thiên Cảm và Hồng Hạc lại nhờ Thường Kiệt khuyên Thái tử ở lại Đông cung, để gần gũi và “ban hồng ân” cho Hồng Hạc. Nhưng Thường Kiệt đã không nhận lời, nên bị họ đánh thuốc mê rồi bức hại trong một đợt tịnh thân các hoạn quan?! Có lẽ vì vậy, mà sau này ông đứng hẳn về phía bà Hoàng Thái phi (Ỷ Lan), chống lại bà Thượng Dương Hoàng hậu.
Lý Thường Kiệt, ai cũng biết là một nhà quân sự lỗi lạc, nhưng mấy ai biết ông còn là một chính trị gia xuất sắc. Khi biết nhà Tống manh nha xâm lăng Đại Việt. Tại Lý triều, ông khôi phục được hòa khí của nội bộ quý tộc. Bên ngoài, tạo sự đoàn kết với các tù trưởng của dân tộc thiểu số vùng Việt Bắc. Bình Chiêm nhanh chóng để ổn định mặt phía Nam. Kế đến, đang khi đem 10 vạn quân phạt Tống, ông cho bá cáo “lộ bố văn” (bài văn nói rõ lý do đánh Tống), cho dân Tống biết lý do phạt Tống lần này, là trừ chính sách sai lầm của Vương An Thạch, để giúp dân Tống. Vì vậy, quân Đại Việt viễn chinh lúc ấy, được sự ủng hộ của đồng bào Việt và dân Tống. Một chính trị gia xuất sắc nhự vậy, nếu Khổng Minh còn sống, chắc chắn phải bái phục Thường Kiệt, vì Khổng Minh chưa bao giờ biết mưu lược tài tình như thế.
Trong Việt sử tiêu án, sử gia Ngô Thì Sĩ đã cảm phục sách lược dụng binh của Lý thường Kiệt: “bày trận đường đường, kéo cờ chính chính, mười vạn thẳng sâu vào đất khách, phá quân ba châu như chẻ tre, lúc tới không ai dám địch, lúc rút quân không ai dám đuổi, dụng binh như thế, phải nói nước ta chưa từng có bao giờ”?. Đúng vậy, ông tiên liệu trước mỗi bước đi của quân thù; nên sau khi phạt Tống, rút quân về nước an toàn, liền củng cố phòng tuyến ở phía bắc sông Như Nguyệt, để phòng ngự giặc. Sau đấy, ông còn làm bài thơ “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ bất hủ để cổ vũ tinh thần binh sĩ, đem về chiến thắng huy hoàng.
Cảm phục: Lý Thường Kiệt
Mưu lược, binh thư chất chứa lòng
Lý triều tin cậy, há thong dong?!
“Tuyên ngôn” sâu sắc đời ghi nhớ
“Binh pháp” cao thâm thế thủ công
.
Nhanh nhẹn bình Chiêm, rầm rộ tiến
Lẹ làng phạt Tống, lẫy lừng trông
Anh hùng hiển hách lưu kim cổ!
Gương sáng, muôn đời rạng núi sông!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn