Hôm nay,  

Vài Nét Chấm Phá Về Việc In Sách: Chuyện Cười Xh Chủ Nghĩa

06/09/201300:00:00(Xem: 13184)
Sinh ra trong lòng xã hội chủ nghĩa, nơi đói nghèo và bóng đêm ngự trị, ai cũng phải đói nghèo đến chết, khổ sở, nhục nhằn đến chết. Vì vậy đa phần người dân sinh ra để khóc, còn tôi không hiểu sao sinh ra cứ thích... dở mếu, dở cười (nước mắt lăn nghiêng về phía có nụ cười). Danh ngôn nước ngoài nhận định: “ Nhà văn, nghệ sĩ đôi khi gần với người hâm” bởi bất cứ sự sáng tạo nào cũng hàm chứa trong nó sự “nổi loạn”, bứt phá, kèm theo những nỗi oan khuất và sự hy sinh.

Nhà văn Ma văn Kháng, cây đại bút của nền văn học xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng nói: “Chân lý lúc đầu mang hình dạng một gã điên. Kẻ tìm kiếm sự an toàn tuyệt đối, kẻ luôn tìm cách ở ngoài vòng nguy hiểm, coi bảo mạng, thủ thân là việc lớn, là điểm tiền khởi cho đời mình, là kẻ không có niềm tin, là kẻ không sáng tạo, v.v...” Vì vậy trong bóng đêm nghiệt ngã của nền văn học xã hội chủ nghĩa, nơi bao kẻ chỉ lợi dụng chữ nghĩa thánh hiền của ông cha như một tấm ván bắc cầu để nhảy xa trên con đường danh vọng, hoặc cố tình viết ra những con chữ bạc nhược, nhợt nhạt, nịnh nọt, bốc thơm lãnh tụ ngu đần, dốt nát cốt được đi mãi trên“lề phải”, hưởng cơm thừa canh cặn cùng những cục xương bố thí của những ông chủ chó má, thì tôi mài mình, múc óc ra mà viết...Tất cả những gì gọi là chất liệu của cuộc sống đều ùa vào tôi, lắng đọng trong tâm hồn bản thể tôi và dần dần theo thời gian biến thành chương hồi, bài báo, cuốn sách, chuyện hài, v.v... đồng thời làm nên nhân cách con người tôi. Một trí thức sinh ra trong lòng xã hội chủ nghĩa nhưng không hề chịu để cho đảng đoàn, bác hồ sinh tính. Tôi nhớ rất rõ hồi lên 6, khi bước chân vào vỡ lòng cũng là lúc tôi phải đi sơ tán ở Bắc Ninh. Bé bỏng, xinh đẹp, ngoan ngoãn nhưng không chịu làm “kế hoạch nhỏ” nên tuy học giỏi tôi vẫn không được hiệu trưởng đưa vào danh sách cháu ngoan bác hồ. Nhiều đứa bạn cùng làng thắc mắc: - Mày giỏi thế, sao không xin cô chủ nhiệm danh hiệu cháu ngoan của Bác? Bố tôi biết được, bảo:

- “Ôi giời, cháu ngoan bác Hồ mà phải tranh nhau đi hốt phân trâu, phân bò trên đường làng rồi cắt cỏ nộp cho hợp tác xã nuôi trâu bò, thả xuống ao cho cá ăn thì cháu ngoan làm gì? Mày sinh ra đâu có phải để làm những việc ấy hả con? Cứ học hết mấy bồ chữ nghĩa bố dạy, rồi là cháu ngoan của ông bà nội, ngoại là được con ạ”. Tất nhiên những lời nói gan ruột trong thời kỳ qúa độ ấy bị coi là “nghịch tử”, nhưng cũng để lại dấu án trong tôi và làm nên tính cách tôi sau này. Làm nhà văn hay nhà báo, ngòi bút phải thẳng. Văn chương ghét kẻ a dua, xu thời, nịnh bợ, hoặc chí ít như số đông đồng nghiệp cũ của tôi vẫn làm: - Một thứ văn chương “phải đạo” vì ngòi bút luôn tõe đôi, khen một tí, chê một tí. Chớ có dại mà đi sâu vào mặt trái xã hội, bởi không phải đầu cũng phải tai. Biết bao nhiêu con người chỉ vì tả cảnh người dân xếp hàng rồng rắn mua phải khoai hà, gạo mốc, nước mắm thối mà phải đi tù để lại vợ con côi cút. Vợ không chịu được sự ghẻ lạnh của người đời, đành phải làm đơn xin ly hôn để được yên thân lấy chồng khác. Con thì còi cọc, đầy chấy rận và có lẽ duy nhất còn có tôi là bạn, còn được bố mẹ tôi cho phép đến nhà chơi, còn không cứ thui thủi một mình vì cảnh bố đi tù, mẹ bỏ đi lấy chồng khác, bà nội già yếu quắt queo như một tàu lá bị hơ trên lò lửa. Cũng biết bao nhiêu người vì một câu thơ hớ hênh: “Có hay đâu giá lạnh dưới chân sàn” mà bị quy thành “ẩn dụ, ám chỉ” căn nhà sàn của bác ở phủ chủ tịch, đến mức phải bỏ nghiệp vụ chuyên môn để vác ba lô ra trận và chết âm thầm ở một nơi núi đỏ rừng xanh nào đó. Cái chết mà tôi mượn lời nhà thơ Nguyễn Đình Thi để tả:

Anh ra đi đầu không ngoảnh lại
Bởi xác thân vùi chết nơi nào?

Bố tôi – một cậu ấm con quan, học sinh trường Bưởi, 25 tuổi buộc phải trở thành trí thức xã hội chủ nghĩa song lại mang trong đầu kiến thức của gần 4000 nghìn năm văn hiến, giỏi tiếng Hán ngang tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức. Biết thơ thiền từ thời Lý Trần, thuộc làu làu “Quốc âm thi tập” của cụ Nguyễn Trãi, đọc một lèo bài “Văn tế thập loại chúng sinh” của đại thi hào Nguyễn Du, và trong nhà luôn có truyện Kiều gối đầu giường, chưa kể các sách khoa học, xã hội khác... Chính vì lớp trầm tích này ngấm qúa sâu trong mạch máu, tế bào của bố, nên trong khi tình yêu giữa bố mẹ quấn quyện, thăng hoa ở thời điểm hưng phấn tột đỉnh nhất, tôi đã được thừa hưởng một phần hệ gien của người... Thói đời, người ta khổ qúa thì chỉ biết khóc, còn tôi không tan thành nước được (dù tên tôi là nước do mẹ làm ở Bộ Thủy Lợi)* đành phải dùng tiếng cười để hóa giải mọi sự. Cái mà các danh nhân thế giới vẫn bảo: “Phải biến bi kịch thành thiên tài”. Thì tôi với sức vóc bé nhỏ của mình, chỉ nhờ vào chút “thiên bẩm” từ bố và tam tứ đời nội ngoại truyền lại trước đó nên chỉ có thể biến bi kịch thành... hài kịch. Bất cứ cái gì tôi cũng có thể tạo thành tiếng cười được. Cho nên khi làm phóng viên báo, ngoài mệnh danh là cây phóng sự - chuyên đong đưa giữa phóng sự và truyện ngắn kiểu “cơm thầy cơm cô” của Vũ Trọng Phụng, hay “đống rác cũ” của Nguyễn Công Hoan, tôi còn được suy tôn là cây chọc cười thiên hạ. Các tác phẩm của tôi khi gửi đến các tòa soạn báo hay nhà xuất bản cũng luôn gây sự bình luận, tranh cãi. Người bảo:

- “Viết thế này thì chết à? Em ơi, muốn được giải Nobel văn học thì em phải sinh ra ở nước ngoài, chứ không thể ở Việt Nam được.”
chet_ngoai_ke_hoach_bia_resized
Bìa sách Chết Ngoài Kế Hoạch.”
Có người lại lẩy Kiều để mắng vốn tôi:

Người khen thì mặc người khen
Đem ra công bố thì em... ốm đòn.

Tất nhiên là đòn hội chợ của các cấp, từ phòng P25 phụ trách văn hóa phản động, PC 35 chuyên theo dõi các loại gián điệp quốc tế, đến sở thông tin văn hóa Hà Nội, bộ văn hóa thông tin Việt Nam. Ban văn hóa tư tưởng, v.v... vốn là tai mắt, tim óc của đảng.

Xin quay ngược lại thập kỷ 60, khi tôi mới chỉ là đứa bé con lên 8, lên 9, mang tiếng là dòng dõi tư sản, con quan, nhờ công ơn cách mạng mà cả gia đình tôi bị đuổi khỏi nhà, phải ở nhờ người họ hàng ở 75 phố Phan Thanh Giản (sau năm 1975 bị cộng sản đổi thành phố Nguyễn Hữu Huân). Mỗi lần lũ lụt đến, cả ba gia đình phải chui rúc trong căn phòng 20 mét vuông ấy, không nhà tắm, không khu vệ sinh... Tất cả lũ trẻ chúng tôi dù là cháu nội hay cháu ngoại của bà đều thích trành chọe tranh cãi nhau, làm bà luôn phải đứng ra làm quan tòa để không bị coi là phân biệt đối xử. Trong một lần, đứa em họ tôi - vốn là cháu ngoại của bà hờn rỗi ghen tức vì cho rằng bà chỉ biết yêu chiều, quý nịnh tôi vì bố tôi là con trai duy nhất. Trong lúc cả nhà xúm lại ra sức khuyên giải, dỗ giành, đe nét, mắng mỏ, thì tôi chỉ biết sửa ý, sửa lời ca dao để ứng khẩu thành thơ:

Bà ơi thương lấy cháu cùng
Tuy rằng khác bố nhưng chung... một bà.

Câu nói làm cả nhà cười xòa, cả cái con bé đang giãy đành đạch nhẵn cả thềm hè lổn nhổn sỏi cát xi măng đó cũng ngồi bật dạy ngơ ngác trước cơn cười rộ của cả nhà. Và từ đó, sau khi được các chú, cô xoa đầu khen là sáng dạ, thông minh, văn hay chữ tốt giống bố, theo thời gian, tôi tự hiểu được hài hước là một sự thông minh, là thứ gia vị không thể thiếu trong cuộc đời. Càng trong những tình huống bi phẫn nhất, càng phải biết sử dụng chất hài một cách khéo léo, thậm chí như một biện pháp quan trọng để bôi xóa, xoa dịu sự tàn nhẫn quái đản, làm cho người được cù dễ dàng thay đổi trạng thái, còn văn chương viết ra cũng bớt đi sự hằn học, thù hận ngút trời, vốn không phải là bản chất thực của văn chương.

Từ đó thay vì câu châm ngôn của thời hiện đại: “Hạnh phúc là khi còn nước mắt rơi”, tôi lôi tiếng cười theo mình vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, kể cả các cổng tòa soạn cũng như trường học, bệnh viện, đặc biệt là đồn công an, trại giam, v.v...

Năm 1985, trước ngày cộng sản đổi mới, tôi mới 25 tuổi, mặt hoa da phấn, mà ăn đói mặc rách. Có lẽ câu “công tử nhất bộ” ra đời trong hoàn cảnh này, bởi ở nhà là vá chằng vá đụp, chỉ có đi học, đi chơi, ra đường mới có một bộ lành lặn, tử tế. Hễ tôi có tỏ ý không hài lòng là bị mẹ càu nhàu: “Đi ngủ thì mặc đẹp để cho muỗi nó xem à. Cơm vua lộc nước chỉ có thế, không ăn lông ở lỗ là còn may chán”.

Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi, tôi lại thiếu cả giấy lẫn mực, thiếu cả thời gian, cả nguồn động viên từ phía gia đình, nhất là mẹ... Tuy là con đại địa chủ, có công nuôi cả đại đội quân đội trong nhà, bà ngoại bán vải và gạo tấm đường dài, ông ngoại là hiệu trưởng trường tiểu học, nhưng mẹ tôi chỉ được học đến lớp ba rồi phải ở nhà làm ruộng. Năm mười sáu tuổi bị bắt đi thanh niên xung phong, về làm công nhân nhận lương tuần thay cho cái gọi là lương tháng( nghĩa là chỉ đủ để bôi đủ một hoặc hai tuần là cùng). Phần còn lại mẹ phải nhận làm vệ sinh cho khu tập thể. Cả nghìn con người chỉ có một daỹ nhà xí, phân và giấy chùi đít lúc nào cũng ngập lên tận mặt, còn thùng phi dội nước lúc nào cũng cạn trơ tận đáy. Để tránh bắt gặp mọi người, từ họ hàng cho tới bạn bè, thân quen, tối nào mẹ tôi cũng chỉ được ngủ năm tiếng. Ba giờ sáng đã phải trở dạy đeo khẩu trang, bịt kín mặt, chỉ hở mỗi đôi mắt, đội cái nón mê sùm sụp nhằm che bớt diện tích khuôn mặt đi, mặc một bộ quần áo không thể nào cũ kỹ hơn để dọn dẹp chất thải, đốt hết giấy chùi, hốt tro, kỳ cọ dội nước rồi múc từng xô nước đổ đầy vào thùng phi của cả mười buồng vệ sinh để sáu giờ sáng kịp rút lui khỏi hiện trường. Về nhà, vệ sinh tắm rửa qua loa, ăn vội bát cơm nguội rồi đi làm. 11 giờ trưa, lăn ra ngủ cho laị sức đến hai giờ đi làm tiếp đến 6 giờ... Nhiều khi cơm nguội không có mà ăn vì gạo chỉ có 13 ký lại độn đủ khoai, sắn hoặc khoai tây bi... Xà phòng cũng không đủ dùng (cả tháng chỉ được chia nhau nửa bánh xà phòng Liên Xô)... Chứng kiến cảnh đó, bao nhiêu lần mắt tôi mở to trong đêm và tôi nghĩ không thể thế này mãi được, mình phải viết hết ra những cảm xúc của mình để làm nhẹ nỗi đau của đời mình, đời mẹ, cũng là giải thoát người dân khỏi kiếp sống nghèo hèn, bẩn tưởi, bất công, phi lý này..Vì vậy từ khi 12, 13 tuổi tôi đã đóng vai người quan sát và bắt đầu viết, nhưng chỉ là những trang viết của tuổi học trò, chỉ có thể gửi ở báo thiếu niên tiền phong, mà chẳng phóng viên nào dám dùng, cũng không một lời hồi âm. Trên thực tế, nó như một tiếng nói lạc loài trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cả nước chịu đựng, thắt lưng buộc bụng để dồn sức cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Khi nào nước nhà thống nhất thì muốn gì chả được. Bác đã bảo “Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày xưa” cơ mà.

Miền Nam “giải phóng”, trong máng cỏ của đàn cừu ngoan ngoãn cũng có thêm một chút hương vị của đời sống. Lần đầu tiên người miền bắc được biết đến bột ngọt, mì tôm, nhưng chỉ là khoảnh khắc rồi đâu lại vào đấy, vì sự hy sinh... to béo của các lãnh đạo cộng sản nên bao nhiêu của cải cướp bóc được từ người dân Miền Nam chẳng còn gì. Ca dao xưa bảo: “Bầu dục đâu đến bàn thứ tám, cám nhỏ đâu đến lượt lợn xề”, huống hồ bàn thứ tám nghìn, tám trăm... bao nhiêu nữa? Cầm cự được mười năm, đến năm 1985 là kiệt quệ của sự vinh quang, chiến thắng. Cả nước không thể ngụp lặn trong những ô tem phiếu cũng như húp chung một niêu cháo loãng của đảng cộng sản thiên tài, vĩ đại được nữa mà được lệnh tự túc lương thực. Bao nhiêu gia đình vợ chồng bỏ nhau chỉ vì chồng dại dột cho bạn vay mấy cân gạo mà bạn không đủ khả năng trả nợ. Cũng biết bao nhiêu ông chồng vì thật thà giữ bạn ở lại ăn cơm (dù chỉ là tiện miệng mời do đã đến bữa, nhưng khách lại thật bụng, làm cả nhà mỗi người phải bớt bát để...mát mặt lúc ấy). Khi khách vừa kịp quay lưng là “hòa bình nóng” nổ ra. Tiếp theo là “chiến tranh lạnh” cả tuần, cả tháng, không khí trong nhà như có đám tang, cho đến khi người chồng phải qùy xuống chân vợ mà xin lỗi, hứa hẹn sửa chữa sai lầm hoặc rút kinh nghiệm triệt để mới thôi.

Năm 1985 cũng là năm đánh dấu bi kịch trọng đại trong cuộc đời tôi. Tuy không phải tuổi già, nhưng do đói ăn, thiếu mặc, bố tôi tuy mới bước vào tuổi 65 đã chết vì suy dinh dưỡng nặng.

Trong nỗi đau khổ, đói nghèo, bần cùng của cả nước cũng là nỗi đau mất bố, tôi bắt đầu lén lút viết, không phải vì sợ đảng và chính quyền mà sợ mẹ...

Do hạn chế về mặt bằng nhận thức, lại lấy bố tôi theo kiểu “cha mẹ đặt đâu con nằm đấy”. Vốn học thức đầy mình, mở miệng là tầm chương trích cú, văn hóa tràn trề, mà bốn mươi nhăm năm theo cách mạng, ba mươi tám năm tuổi đảng, đồng lương hưu của một cán bộ từng giảng dạy tại trường Đại học Hàng Hải chỉ đủ mua mỗi tháng bốn mươi đồng tiền gạo, bốn mươi đồng tiền rau (Gồm mười cân gạo mậu dịch và mười cân rau muống héo dập nát của cửa hàng mậu dịch)...Bao nhiêu nhu cầu tự thân đều phải do những đồng tiền thức khuya dạy sớm của mẹ, nên hễ tôi ngồi cắm đầu vào viết là mẹ kể lể, mắng nhiếc, xỉa xói, bắt tôi phải tắt đèn để mẹ ngủ, mai còn có sức đi làm. Nhà chật, vẻn vẹn mười lăm mét vuông, với một ngọn đèn ở giữa nhà, trong khi chữ nghĩa cứ liên tiếp cựa quậy trong đầu như cái thai đã đủ tháng đủ ngày đòi quẫy đạp để ra đời, tôi không tài nào ngủ nổi, đành chui vào gian bếp, ngồi ngay trước cửa chuồng lợn để viết tiếp thì mẹ bắt tắt điện vì không đủ tiền trả hàng tháng. Tôi lúi húi thắp đèn dầu để viết mẹ lại giằng xé bản thảo làm mực đổ lênh láng, mặc tôi ngồi khóc thầm trong bóng tối, còn mẹ thì kiên quyết ra xác lệnh cấm ngặt tôi không được đi theo con đường rồ dại của bố...Cả nửa năm trời như vậy, cứ khi mẹ tôi bước chân ra khỏi cửa là tôi lại lén lút viết, hoặc nhặt lại bản thảo đã bị xé vụn, vừa chắp lại từng mẩu nhòe nhoét mực đổ, vừa đoán từng chữ để chép lại...Cho đến khi những bài báo đầu tiên của tôi được đăng trên báo, tiền nhuận bút ngang bằng với một tuần lương công nhân của mẹ, và tiếng tăm dần dần nổi lên như cồn ở khu tập thể: “Con bé nhà chị giỏi thật, vừa xinh đẹp lại viết báo hay, còn tốt nghiệp Đại học nữa chứ, đúng là ngôi sao sáng của cả khu tập thể nhà mình, hơn đứt các con ông to bà lớn lãnh đạo viện này,” v.v... Tôi mới được mẹ cởi trói, tuy vẫn phải đảm bảo nuôi lợn, nấu cơm, làm mọi việc trong nhà, chỉ sau sáu giờ tối mới được chui lên gác xép để viết và để đèn thật mờ để cả nhà ngủ...

Liên tiếp trong hai năm 1985-1986, trước ngày đổi mới cũng là lúc ông Nguyễn văn Linh hô hào cởi trói, cho phép người dân được quyền “đổi mới tư duy” vừa “nhảy vào lửa” vừa “nhòm vào l.” đảng thông qua chiến dịch NVL. Tôi viết liên tục vài chục truyện vui, ghi rõ: “Truyện vui thời bao cấp”. Vậy mà chả báo nào dám đăng. Hầu hết mọi người nhận xét: “Cởi trói chỉ là tạm thời, bịt miệng người dân mới là vĩnh viễn. Với cá tính và chất giọng tưng tửng khôi hài của em, cứ phải biết dừng lại thì mới có đất sống, đừng dại dột phanh phui mặt trái tấm huân chương của đảng mà “xanh cỏ” có ngày. Thời này không có chuyện “đỏ ngực”, đừng mơ...

Vì vậy tuy cuốn sách thực sự là sản phẩm của những xúc động tinh thần, giàu ý tưởng, lại đa tầng, đa nghĩa, luôn đặt câu chuyện trên nền tảng đời sống thực, chứa đựng đầy đủ, rõ nét những dữ kiện của một thời bảo thủ trì trệ, quan liêu bao cấp (thực chất là sự lường gạt, giả dối, bố thí) nhưng vẫn bị đắp chiếu nằm đấy.

Đầu năm 2003, nhờ tham gia vào phong trào đấu tranh dân chủ, được chú Nguyễn Thanh Giang giới thiệu với nhà văn Vũ Thư Hiên mà một vài truyện mới được tung ra trên mạng internet, tiêu biểu là chuyện: “Chết ngoài kế hoạch” mà nhiều người vẫn nhớ.

Sau này trong những ngày bị mời ra khỏi túi chứa chính sách của nhà nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (thường bị mọi người gọi chệch là “Chẳng hề xấu hổ chút nào vì ngu”) tôi tranh thủ gia cố thêm, từ vài chục truyện ban đầu thành 60, 70 rồi hơn 100 truyện với độ dài cả nghìn trang, chia thành ba tập. Không đọc thì thôi, hễ ai được tôi lén lút gửi bản thảo tới là cười khà khà khoái trá vì sự hồn nhiên, chân thật, cũng là sự ngẫu hứng của tôi thông qua sự tự do sáng tác đã bắc cầu qua những con chữ tạo thành tác phẩm thực sự gây cười cho người đọc. Trong khi mọi người cùng thời đều trốn chạy khỏi sự nguy hiểm, tìm sự yên tĩnh trong tâm hồn bản thể bằng cách nhai lại như vẹt những con chữ vô nghĩa, vô hồn, vô lối, vô minh, vô trách nhiệm của đảng cộng sản để kiếm về những đồng tiền còm cõi nuôi con, thì tôi đối mặt với sự hiểm nguy để viết bằng tất cả sự vò xé của tâm hồn mình, dù gặp phải muôn vàn khó khăn... Giống như ông tổ của bọn “cắn áo nhân dân” (CAND) nói: “Khi cần nhà văn có thể hy sinh đời mình để bảo vệ cuộc đời của trang sách”. Bản thân tôi cũng phải trả bằng giá máu để cuốn sách đến được tay bạn đọc hôm nay. Dù không được trọn vẹn và đầy đặn như tất cả những gì tôi đã viết ra suốt 35 năm qua( vì lũ học trò khốn nạn của Mark), theo lệnh cộng sản đã tràn vào nhà cướp bóc hết lần này lần khác nên có những chuyện tôi không thể nào tìm lại được, nhưng tôi vẫn hy vọng cuốn sách sẽ được bạn đọc để ý, tìm đọc, yêu mến, thấu hiểu tôi và biết đâu có thể gắn liền với tôi từ tâm khảm của mình.

Sacramento 22/8/2013
TKTT
(GHI CHÚ: Nhà văn Trần Khải Thanh Thủy sẽ ra mắt bộ sách “Chết Ngoài Kế Hoạch: Chuyện Cười Xã Hội Chủ Nghĩa” gồm 2 tập. Vào Chủ Nhật 15-9-2013 từ 1:00PM-4:00PM tại Hội Trường Việt Báo, 14841 Moran St, Westminster, CA 92683. Tel: 714-894-2500. Kính mời đồng hương tham dự.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.