Hôm nay,  

Giảng Dạy Lớp Việt Ngữ Đặc Biệt: Hiểu Biết, Thương Yêu, Kiên Nhẫn

24/08/201300:00:00(Xem: 11748)
* Kính tặng quý Thầy Cô khoá TNSP 25, riêng tặng quý khoá sinh giờ “Pp dạy Lớp VNĐB” *

LỚP VIỆT NGỮ ĐẶC BIỆT (VNĐB)

Tại Khoá Huấn Luyện và Tu Nghiệp Sư Phạm Việt Ngữ thứ 25 (TNSP 25) do Ban Đại Diện các Trung Tâm Việt Ngữ tại miền Nam California tổ chức tại Trung Tâm Le-Jao, thành phố Westminser, giữa tháng 8 năm 2013, Ban Tổ Chức đã cho phép tôi chia sẻ kinh nghiệm và phương pháp dạy lớp VNĐB đến quý Thầy Cô tham dự. Tôi trình bày song song với Cô Trần Ngọc Sương, Hiệu trưởng của Trung Tâm Văn Hoá Việt Nam, thuộc thành phố Westminster.

Tôi xin ghi lại vài điểm chính của giờ học này để quý Thầy Cô Việt ngữ nào không có điều kiện dự khoá vì ở xa hay vì gia đình hữu sự, có thể tham khảo. Tôi chọn tựa đề cho phần trình bày của mình là “Giảng Dạy Lớp Đặc Biệt: Truyền Đạt Lòng Yêu Nước Việt, Tiếng Việt,” nhằm đi sát với Chủ đề chung của Khoá, “Sứ Mạng của Thầy Cô trong Công Cuộc Chống Ngoại Xâm.”

Nhưng trước hết, Lớp VNĐB là gì? Đối với tôi, đây là một lớp với học sinh thuộc nhiều trình độ, lứa tuổi, và nhu cầu khác nhau. Một số khoá sinh đã hỏi, và tôi dịch ra tiếng Anh là “Mixed-level Class.” Chữ “Đặc Biệt” rất dễ khiến nhiều người liên tưởng đến lớp “Special Ed” của trường công lập Mỹ, vốn dành riêng cho các em có một số tình trạng sức khoẻ đặc biệt. Do đó, chúng ta cần phân biệt rõ, lớp VNĐB hoàn toàn khác với “Special Ed” về thành phần học sinh. Tuy vậy, trong bất cứ lớp Việt Ngữ nào cũng có thể có những em học sinh có nhu cầu sức khoẻ đặc biệt như trong lớp “Special Ed,” và lớp VNĐB không chỉ dành riêng cho các em này như lớp Đặc Biệt tại các trường công.

HÔM NAY, TÔI ĐI HỌC…

Sau một đêm văn hoá mặn mà tại Nhà hàng Seafood I (và hy vọng một giấc ngủ ngon), quý Thầy Cô dự Khoá TNSP 25 đã thức dậy sớm để dự lớp đầu ngày lúc 8 giờ sáng Chúa Nhật.

Hôm đó, tuy vẫn còn là mùa hè, nhưng khi lái xe qua những phố xá còn rất vắng vẻ của Little Sàigòn phồn thịnh, tôi chợt nhớ đến bài văn tả cảnh mùa thu của Thanh Tịnh, trích từ tập Quê Mẹ, được xuất bản năm 1941 – một bài văn mà có lẽ nhiều người trong chúng ta đã thuộc nằm lòng. “Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”

Buổi sáng mai hôm ấy, tôi cũng đi trên những con đường rất thân quen của Little Saigon, nhưng lần này, tự nhiên tôi thấy lạ, vì hôm ấy, tôi đi học, mà học đến mười lần, như người ta vẫn nói, dạy là học đến mười lần. Tuy không có Mẹ dắt tay, nhưng Mẹ tôi cũng là một nhà giáo, nên được đứng lớp với Cô Trần Ngọc Sương thuộc thế hệ của Mẹ mình, tôi cũng có cảm giác như có Mẹ bên cạnh. Cám ơn Cô Sương đã cho tôi cảm giác tuyệt vời đó.
tu_nghiep_su_pham_0_resized
Hình ảnh Khoá TNSP 25. (Photo Trangđài Glasssey-Trầnguyễn)
MỤC ĐÍCH TIÊN QUYẾT

Đối với tôi, mục đích tiên quyết của việc dạy Việt ngữ là truyền đạt lòng yêu nước cho các em, nhất là qua các bài hịch, bài lịch sử ngắn, gương anh hùng yêu nước xưa và nay, vv. Tuy những Thầy Cô dạy Việt ngữ không phải là những người hoạt động chính trị, nhưng trong tình cảnh đất nước nguy biến hiện nay, chúng ta không thể chỉ dạy tiếng Việt một cách vô nghĩa, mà cần hướng các em về một quê hương – tuy các em có thể chưa một lần trở về – nhưng vẫn là cội nguồn của chính các em và con cái các em sau này.

Theo tôi, đây là điểm mấu chốt cho việc duy trì văn hoá ngôn ngữ Việt tại hải ngoại: chính quý Thầy Cô cần có một niềm hãnh diện về nguồn gốc của mình, để có thể tưới tẩm giáo trình và bục giảng với chính nguồn nhiệt huyết đó. Khi các em đón nhận kiến thức và nhiệt huyết của quý Thầy Cô, các em sẽ thích thú hơn với lớp Việt ngữ mỗi tuần, và mong rằng, chính các em cũng sẽ làm cho nhiệt huyết đó lây lan trong công việc và đời sống của mình.

Chúng ta cần trang bị cho các thế hệ sau khả năng ngôn ngữ và văn hoá để tham gia vào cộng đồng nhà, tiếp tục phát triển cộng đồng, và tận dụng những thay đổi không ngừng này. Thời điểm tốt nhất để bắt đầu học một ngôn ngữ là từ trong bụng mẹ, nhưng cần phải có những chương trình huấn luyện ngay từ nhỏ, trãi dài suốt cho đến đại học và sau đó. Cộng đồng Việt hải ngoại ngày càng mở rộng, và đóng vai trò tiên quyết trong công cuộc tranh đấu cho nhân quyền, dân quyền, và chủ quyền lãnh thổ tại và của Việt Nam. Tiếng Việt chính là trung tâm điểm của sự phát triển và công cuộc đấu tranh này, vì mục đích tiên quyết trong việc dạy tiếng Việt là truyền đạt lòng yêu nước Việt, yêu văn hoá Việt.

Bên cạnh đó, quý Thầy Cô cần giúp các em phát triển khả năng ngôn ngữ và đào sâu lòng yêu nước, yêu ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam, hiểu biết về địa lý phong thổ quê hương. Vô tri bất mộ. Không biết thì không thể yêu. Khi các em hiểu biết sâu sắc về quê hương, văn hoá, dân tộc Việt Nam, các em sẽ có được một sự thông cảm lớn lao đối với cha mẹ, gia đình, và quê hương. Cám em sẽ nhận ra rằng, không chỉ có người Việt chúng ta quan tâm đến Việt Nam, mà cả thế giới cũng quý trọng và tìm hiểu về văn hoá lịch sử của chúng ta.

Hơn nữa, chúng ta cần đánh thức sự quan tâm của các em về những vấn đề quốc nạn hiện nay – Đường Lưỡi Bò, đô hộ văn hoá của Trung Quốc, ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, chúng ta cũng cần khơi dậy và củng cố sự hiểu biết của các em về những vấn đề quốc nạn hiện nay. Đại sứ David Shear đã nói trong cuộc họp báo ngay chính tại Trung Tâm này ngày mồng 1 tháng Sáu vừa qua, “Tiếng nói của cộng đồng người Mỹ gốc Việt hết sức mạnh mẽ. Chúng tôi lắng nghe quý vị từ Hà Nội, và người dân ở Việt Nam cũng lắng nghe tâm tư đó. Đây là điều rất quan trọng. Chúng tôi lắng nghe quý vị một cách rất nghiêm túc.”

Chính giới trẻ hải ngoại sẽ tạo ảnh hưởng quốc tế trên những thay đổi tại Việt Nam. Cộng đồng hải ngoại chính là nơi các em có thể tìm hiểu về những bất công, đen tối tại quê nhà, để các em có bệ phóng vững vàng, nhập cuộc trong sứ mạng dân chủ hoá đất nước và nâng cao đời sống của người dân.

VÀI PHƯƠNG PHÁP HỮU DỤNG

Việc đầu tiên quý Thầy Cô cần làm là định giá trình độ lớp học. Có một vài cách giúp chúng ta nhận định khả năng Việt ngữ của các em. Trong các lớp VNĐB, đa số các em đều ở tuổi đại học, nên khả năng tư duy của các em đã trưởng thành. Do đó, chúng ta không chỉ dạy ngôn ngữ ở trình độ căn bản, mà cần đào sâu về văn hoá, văn chương, lịch sử, và tình hình thời sự hiện nay cho các em.

Tôi may mắn có kinh nghiệm dạy lớp VNĐB tại Trường Việt ngữ Cộng đoàn Westminster ngay từ những năm 90s, do Thầy Vũ Hoàng làm hiệu trưởng. Từ năm 2008 đến nay, tôi còn may mắn hơn, được dạy lớp VNĐB tại gia. Lớp này “đặc biệt” hơn cả Đặc Biệt, vì chỉ có một học sinh, học 24/24, và học sinh này không phải là người Việt. Học sinh này ham học, hay hỏi, ngay cả giờ cơm cũng hỏi. Học sinh này không chịu gọi tôi là cô, vì là ông xã của tôi. Nên nếu quý Thầy Cô nào gặp thử thách khi phụ trách lớp Đặc Biệt, cứ nghĩ đến trường hợp của tôi thì sẽ thấy nhẹ người, vì ít ra, không phải trả lời những câu hỏi của học trò cả ngày cả đêm.


Sau đây là một vài cách để nhận định khả năng tiếng Việt của các em. Thứ nhất, là dựa theo học bạ của năm trước. Đối với các học sinh mới, quý Thầy Cô có thể cho các em viết một đoạn văn ngắn, đọc một bài thuộc lòng mà các em biết, đọc một bài văn từ sách giáo khoa và trả lời vài câu hỏi ngắn, hay chép một đoạn chính tả. Những trắc nghiệm này sẽ giúp Thầy Cô biết trình độ đọc, nói, viết của các em. Việc nhận định khả năng tiếng Việt của các em là yếu tố tiên quyết để quý Thầy Cô đứng lớp với hiệu quả tối ưu. Theo các nghiên cứu về sư phạm, cách dạy hiệu quả nhất là bắt đầu từ những kiến thức các em đã biết, để giúp các em tiếp nhận những điều chưa biết.
tu_nghiep_su_pham__1__resized
Hình ảnh Khoá TNSP 25. (Photo Trangđài Glasssey-Trầnguyễn)
Thứ hai, quý Thầy Cô có thể cùng học sinh vạch ra lộ trình cho niên khoá, nhất là một Dự án cho cả năm. Tuy Thầy Cô cần soạn giáo trình cho cả năm trước ngày khai giảng, nhưng vẫn có thể và nên kết hợp ý kiến của các em vào giáo trình đã chuẩn bị. Đây là một điều cần thiết và ích lợi. Thứ nhất, học sinh các lớp Đặc Biệt đã có khả năng tư duy trưởng thành, nên các em sẽ có những đóng góp hữu ích và thực tế cho chương trình học. Thứ hai, khi các em quan tâm đến một điều gì đó, các em sẽ thích học hơn và đầu tư vào việc học nhiều hơn. Thứ ba, việc Thầy Cô trưng cầu và kết hợp ý kiến của các em trong việc soạn giáo trình sẽ giúp các em có tinh thần suy nghĩ độc lập, gây hứng để các em sau này có thể tự mình tìm hiểu thêm các đề tài khác, dù có tiếp tục theo học các lớp Việt Ngữ hay không.

Quý Thầy Cô có thể đề ra nhiều dự án khác nhau, cũng như khuyến khích các em đưa ra những dự án thích hợp. Tuần trước, tôi vừa hướng dẫn nhiều lớp khác nhau trong khoá huấn luyện một tuần về văn hoá, lịch sử, và ngôn ngữ Việt Nam dành cho các Thầy Cô đang giảng dạy tại các trường công lập. Chương trình tu nghiệp tại chức này do Chương trình FIRST tại Cal State Fullerton thực hiện. 11 năm trước, năm 2002, tôi cũng đã giúp cố vấn và hướng dẫn nhiều phần trong Khoá này, khi đó kéo dài đến hai tuần.

Năm nay, tôi hướng dẫn ba phần: dân nhạc Việt Nam, thăm viếng và tìm hiểu Little Saigon, và cách sử dụng Lịch sử Truyền Khẩu cho các lớp thuộc cấp hai và cấp ba. Tôi đã gợi ý một số đề tài cho quý Thầy Cô tại Khoá học ở Fullerton, và tôi nghĩ, những đề tài này cũng thích hợp cho các lớp Việt ngữ Đặc Biệt. Một số Dự án hữu ích như: phỏng vấn cha mẹ về kinh nghiệm vượt biển và viết một bài tường thuật; tìm hiểu về một biến cố chính trong cuộc chiến Việt Nam (như Tết Mậu Thân, 30 tháng Tư) và viết một bài văn về biến cố đó; tìm hiểu về một khía cạnh văn hoá Việt Nam như ngày Tết và làm một áp-phích (poster) hay brochure để cả lớp cùng làm tài liệu; tìm hiểu về dân nhạc Việt Nam và cho thấy dân nhạc đã phản ánh địa lý, tâm lý, và triết lý Việt như thế nào; vv.

Tôi cũng xin quý Thầy Cô lưu ý một vài điểm, như tránh sử dụng từ ngữ sau 1975, chú trọng việc viết đúng chính tả, khuyến khích các em tham khảo với cha mẹ về những tài liệu thích hợp, tránh các trang mạng bị ảnh hưởng của Cộng Sản, vv. Trong quyển Đặc san Kỷ niệm 25 năm TNSP (ttvn.org, 714 799 0321) mà quý Thầy Cô nhận được khi nhập khoá, có bài “Đối chiếu tiếng Việt” trước và sau 1975, trang 26-29. Đây là một tài liệu rất quý giá cho tôi và những người thuộc thế hệ tôi trở đi. Tôi chào đời sau 30 tháng Tư 1975, nên tôi trong 19 năm ở Việt Nam, tôi đã học những từ ngữ hậu 1975, và là lớp đầu tiên phải học chương trình cải cách giáo dục. Đó là bất công lớn đối với tôi.

Tuy nhiên, tôi may mắn được đọc một số sách cũ còn sót lại từ thư quán mà ông bà Ngoại tôi kinh doanh trước 1975, và sách văn học và văn chương của ông tôi còn giấu lại. Cho nên ít nhiều, khi còn ở Việt Nam, tôi đã được hé mở cho một tiếng Việt không Cộng Sản, tuy rất giới hạn. Khi định cư tại Mỹ năm 1994, tôi đã cố gắng rất nhiều để học tiếng Việt, nhất là sửa lại những từ ngữ mà tôi đã bị nhồi sọ khi ở trong nước. Tôi vô cùng biết ơn những tác giả đã ghi lại sự thay đổi sau 1975, vì khi ở Việt Nam, tôi hoàn toàn không được biết những gì đã xảy ra trước khi tôi chào đời. Tác phẩm “Bụi và Rác” của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng ghi rõ những chữ đã bị đổi ngay sau 30 tháng Tư 1975, giúp tôi nhận diện những từ ngữ mà tôi không ngờ mình đã học sai. Đối với quý Thầy Cô thuộc thế hệ trước tôi, đây có lẽ không phải là một khó khăn. Nhưng đối với các bạn cùng tuổi hoặc trẻ hơn, tôi mời gọi các bạn lưu tâm đến việc sử dụng từ ngữ cho thích hợp, nhất là vì chúng ta đang dạy dỗ các thế hệ tương lai.

Tôi cũng đã giới thiệu quý Thầy Cô về trang mạng Du Ca và bài “Hãy Đến Cùng Chúng Tôi” của Nhạc sĩ Fa Thăng Nguyễn Quyết Thắng, tác phẩm “Chuyện Xa Gần” của nhà văn Nguyễn Ngọc Bảo, Quốc Văn Giáo Khoa Thư (QVGKT), và phim ngắn “Chạy trong cỏ cao” của Đạo diễn Vũ Duy Hảo. Một Thầy, tuy đã 75 tuổi, đã đứng lên và đọc làu làu bài “Xuân và Thu” từ QVGKT, khiến mọi người thích thú. Rất nhiều Thầy Cô muốn có thêm tài liệu để dạy lớp Đặc Biệt. Tôi cũng đưa ra nhiều phương pháp khác, nhưng không thể nói hết trong bài viết này. Xin phép trình bày đầy đủ hơn trong một dịp khác.

HIỂU BIẾT, THƯƠNG YÊU, KIÊN NHẪN

Rất nhiều quý Thầy Cô tham dự giờ “Phương pháp dạy lớp Đặc Biệt” tại Khoá TNSP 25 đã từng dạy lớp VNĐB và cả lớp “Special Ed” ở trường Mỹ. Quý Thầy Cô đã sẵn lòng đóng góp suy nghĩ và kinh nghiệm của mình, khiến cho giờ học thêm phong phú và hữu ích. Điều tôi cảm nhận rõ nhất là tình yêu thương của quý Thầy Cô dành cho các em, sự hết mình của họ đối với tiếng Việt và nước Việt.

Việc tham dự Khoá TNSP 25 chính là một bằng chứng cụ thể của sự hy sinh, dấn thân, tận hiến của quý Thầy Cô. Với lòng thiết tha học hỏi, Thầy Cô liên lỉ làm giàu sự hiểu biết của mình, giúp cho việc đứng lớp đạt hiệu quả cao. Mong rằng những kinh nghiệm được chia sẻ và phần trình bày của hai giảng viên sẽ giúp quý Thầy Cô nhận ra nhu cầu mọi mặt của các em, và đáp ứng những nhu cầu đó một cách thoả đáng.

Giáo dục là một thiên chức đòi hỏi sự kiên nhẫn và cảm thông. Cô Christine Phạm đã tươi cười kể với các khoá sinh trong lớp về việc xuất tiền túi để mua học cụ và tài liệu cho các em, một cách để thưởng và khuyến khích các em. Rất nhiều Thầy Cô Việt ngữ cũng giống như Cô Christine, mỗi cuối tuần lặn lội đến trường, kiên nhẫn đứng lớp, và giảng dạy trong yêu thương. Tôi thật sự đã học đến mười-lần-mười qua giờ “Phương pháp dạy lớp Đặc Biệt” khi tôi lắng nghe những chia sẻ quý báu của các Thầy Cô khoá sinh. Chính các Thầy Cô đã cho tôi một niềm tin rất lớn: rằng nước Việt sẽ mãi đứng vững, vì tiếng Việt sẽ mãi trường tồn nhờ vào những gương hy sinh như quý Thầy Cô.

Bài & hình: Trangđài Glasssey-Trầnguyễn

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.