Hôm nay,  

Độc Lập, Tự do, Hạnh Phúc

7/13/201300:00:00(View: 7423)
Năm nay Lễ Độc Lập Hoa Kỳ rơi vào thứ Năm nên nhiều người được nghỉ kéo dài bốn ngày, đến hết Chủ Nhật. Một cuối tuần vui chơi, ăn nhậu mừng lễ và cùng đón nắng hè với người thân, bạn bè.

Đầu tuần trước, xe BART không chạy. Công nhân đòi tăng lương, đòi thêm quyền lợi hưu trí, bảo hiểm y tế mà ban giám đốc không chấp thuận. Thế là đình công, cầm biểu ngữ xuống đường, tạo trở ngại cho gần nửa triệu cư dân dùng tàu điện đi làm mỗi ngày. BART không chạy nên nhiều người năm nay không vào San Francisco coi bắn pháo bông.

Năm 1976 tôi đón Lễ Độc Lập đầu tiên khi nước Mỹ tròn 200 tuổi. Năm đó đi coi bắn pháo bông ở sân vận động Candlestick, dù đã mặc vào người mấy tấm áo dầy mà vẫn cảm thấy cái lạnh mùa hè San Francisco.

Dịp lễ lớn nhất của Mỹ rơi vào mùa hè, mùa của nhiều thú vui chơi, thư giãn nhất trong năm. Hai tuần trước leo núi Yosemite, nóng như lửa. Tuần này nhiệt độ vẫn trên 100 vì thế kéo nhau xuống biển Santa Cruz. Ở đây có những trò chơi nhào lộn cao tốc cho trẻ con. Người lớn cắm dù, dựng lều, đem lò ra nướng thịt, burger, hot dog. Bia chỉ được uống trên khu vực giải trí, không được mang ra bãi biển. Giới hạn thế, nhưng giấu bia trong thùng đá, khi uống rót vào ly giấy. Nhâm nhi, lai rai.

Đường ra biển sáng sớm đã đông xe, chạy rất chậm. Lúc ngừng tại một ngã tư, thấy trên bảng “Welcome to Santa Cruz” có ghi là thành phố kết nghĩa chị em với nhiều nơi trên thế giới: Nhật, Ý, Tây Ban Nha, Ukraine, Nicaragua, Venezuela.

Tấm bảng là biểu hiện tinh thần độc lập và tự do của dân Mỹ. Kết nghĩa chị em với các nước bạn không nói làm gì, nhưng với Venezuela là điều chú ý vì bao năm nay lãnh đạo nước này hăng hái chống Mỹ, ra rả chửi Mỹ. Bất kể quan hệ ngoại giao hai nước căng thẳng, Santa Cruz vẫn đưa bàn tay thân hữu ra kết nghĩa với Puerto La Cruz.

Trong vụ nhân viên tình báo Edward Snowden tiết lộ bí mật nghe lén của chính phủ Mỹ, Venezuela sẵn sàng đón nhận cho tị nạn.

Và cư dân Santa Cruz cũng ủng hộ Snowden. Trên đường Beach sáng nay có vài chục người cầm biểu ngữ xuống đường hoan hô việc làm của Snowden.

Độc lập, Tự do ở Mỹ là thế. Tổng thống chẳng nhắc đến, người dân cũng không, chỉ thể hiện qua những việc làm và hành động.

Trong khi đó lãnh đạo Việt Nam lại luôn nhắc đến Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Nghe riết, trong các phát biểu của quan chức trên VTV4; đọc riết, trên các báo của nhà nước; và thấy riết trên các giấy tờ, khẩu hiệu và gần đây là trong các phản hồi của những dư luận viên ăn lương nhà nước.
buivanphu_20130710_julyfourth_h01_welcome_resized
Santa Cruz kết nghĩa chị em với nhiều thành phố trên thế giới. (ảnh Bùi Văn Phú)
Có nghe, có đọc nhưng tôi không tin. Vì sao? Nhìn vào hiệp ước biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhìn vào những phản ứng hay cảnh báo của một số người trong nước đối với quan hệ Việt-Trung và âm mưu của Bắc triều, mà hệ quả là họ bị sách nhiễu hay phải vào tù. Nhìn vào đường khoanh lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc, nhìn những lần tàu Trung Quốc tấn công tàu Việt Nam, nhìn vào những chuyến đi của lãnh đạo Việt Nam tới Trung Quốc, tất cả cho thấy sự sợ hãi và lệ thuộc của lãnh đạo Việt Nam vào Trung Quốc là điều có thực.

Lãnh đạo các nước khác trong khu vực như Nam Hàn, Nhật Bản, Malaysia, hay Thái Lan, Philippines, Myanmar không thường xuyên đi Trung Quốc. Trong khi đó Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước, Thủ tướng của Việt Nam lại luân phiên qua hội họp, bàn bạc với Bắc Kinh.

Vì quan hệ Việt-Trung ở tầm mức cao hơn quan hệ Nhật-Trung hay Hàn-Trung? Tôi không nghĩ thế. Trung Quốc chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam thôi, với Nhật Bản hay Nam Hàn nào dám.

Vì sao Trung Quốc lại chỉ có thể bắt nạt được Việt Nam. Vì lãnh đạo Việt Nam đã đánh mất tinh thần độc lập, làm suy yếu tính tự chủ của dân tộc đã có từ thuở “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”.

Quan chức nhà nước hay nói đến Độc lập. Nhưng cả nước không có được một tờ báo độc lập của tư nhân. Nhắc đến tự do mà các ban ngành phụ trách thông tin không cho các ý kiến trái với quan điểm của nhà nước được hiển thị, trong khi trả lương cho cả nghìn dư luận viên để viết bài, viết phản hồi với mục đích giải thích chính sách của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đánh tan những “tuyên truyền xuyên tạc” của “bọn phản động” trên các mạng thông tin quốc tế và những blog lề trái.

Tự do. Ở Việt Nam chỉ gắn liền với bắt bớ, giam tù vì người Việt ngày nay vẫn chưa có tự do phát biểu, không được biểu tình, không được ra báo, không được hội họp hay lập hội, không được tự do ứng cử.

Nếu có tự do, ở Việt Nam đã có những tờ báo độc lập, nhiều tổ chức xã hội, nghề nghiệp, có nhiều cuộc xuống đường rầm rộ phản đối Trung Quốc lấn chiếm đất biển và mỗi kỳ bầu cử đã nhộn nhịp ứng viên của nhiều đảng chính trị vận động tranh cử.
buivanphu_20130710_julyfourth_h02_bieutinh_resized
Xuống đường ủng hộ cựu nhân viên tình báo Mỹ Edward Snowden. (ảnh Bùi Văn Phú)
Tự do ở Việt Nam, như nhận xét của cố thi sĩ Nguyễn Chí Thiện: “Tự do tôi quí thiết tha, mà sao tù ngục hết ra lại vào.”

Lời thơ từ nửa thế kỷ trước mà bây giờ cũng vẫn đúng. Có thể nhắc đến Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Hồ Thị Bích Khương, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trần Huỳnh Duy Thức, Việt Khang, Cù Huy Hà Vũ, Trương Duy Nhất, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha… là những người yêu nước, yêu tự do mà đang bị tù đày.

Hạnh phúc. Điều này khó đong đếm vì hạnh phúc chỉ là khái niệm tương đối, tùy theo hoàn cảnh của mỗi cá thể.

Một nghiên cứu năm 2006 của Giáo sư Adrien White, Đại học Leicester Anh quốc, đã xếp hạng 178 quốc gia về chỉ số hạnh phúc.

Nhiều nước Bắc Âu sống hạnh phúc nhất: Denmark, Switzerland, Austria là ba nước đứng đầu bảng. Trong khi Congo, Zimbabwe và Burundi ở cuối bảng. Hoa Kỳ xếp hạng 23, Anh quốc 41, Nhật 90, Nga 167.

Nghiên cứu dựa vào những yếu tố làm cho người dân cảm thấy cuộc sống có hạnh phúc nhiều hay ít là điều kiện y tế, mức độ giầu có và nền giáo dục.

Việt Nam được xếp hạng trung bình, bằng với Cambodia, cao hơn Lào, Miến Điện, Ấn Độ, Nga; thua Nhật, Nam Hàn, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Trung Quốc.
buivanphu_20130710_julyfourth_h03_baibien_resized
Biển Santa Cruz ngày 4-7-2013. (ảnh Bùi Văn Phú)
Chỉ số hạnh phúc đó có lẽ phản ánh phần nào nguyên nhân khiến nhiều người Việt vẫn còn bỏ nước ra đi.

Hơn ba thập niên trước người Việt ra đi bằng thuyền, bằng con đường đoàn tụ gia đình ODP, diện HO, diện con lai, diện vượt biển hồi hương, bằng đường xuất khẩu lao động.

Nay người Việt chọn con đường du học, đường kết hôn với người nước ngoài. Tìm được lối thoát là họ sẵn sàng rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún.

Ừ, thì bảo vì hoàn cảnh gia đình nghèo quá, họ ra đi để tương lai có khả năng giúp đỡ người còn ở lại.

Nhưng người giầu cũng tìm đường ra đi. Càng giầu càng muốn cho con cái sớm được ra khỏi nước bằng con đường du học các nước Úc, Anh, Pháp, Mỹ ngay từ cấp hai.

Nếu ai ra đi và không còn muốn trở về. Điều đó có nghĩa là ở một nơi nào đó họ đã tìm được độc lập, tự do và hạnh phúc.

© 2013 Buivanphu.wordpress.com

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.