Hôm nay,  

Hư Thực Về Đảng Cộng Hoà – Phần II

6/4/201300:00:00(View: 18284)
...Obama đắc cử nhờ phiếu của 98% dân da đen, 75% gốc Nam Mỹ, 70% da vàng...

Trên số báo này, như đã thưa cùng quý độc giả, kẻ viết này bàn tiếp tục về một vài “tội” mà một độc giả của Việt Báo đã nêu lên về đảng Cộng Hoà.

1. “CH chống đối mọi chính sách bảo vệ nhân quyền từ ngàn xưa, kể cả bảo vệ nhân quyền của người Mỹ da đen.

“Từ ngàn xưa” nghe hơi quá xa khi đảng CH chỉ mới được thành lập có hơn 100 năm nay. Chỉ cần đi ngược dòng lịch sử hơn một trăm năm thì cũng thấy ông CH Lincoln là người đã phá xích nô lệ cho dân da đen, và chấp nhận nội chiến để bảo vệ chính sách của mình cũng như bảo vệ Liên Bang.

Đi xuống một bực để nhìn vào các tiểu bang, những thống đốc kỳ thị da đen nặng nhất cho mãi đến thập niên 70 chính là các thống đốc DC của các tiểu bang Alabama, Mississippi, Louisiana, Georgia và South Carolina. Năm 1972, Thống Đốc Dân Chủ George Wallace của Alabama ra tranh cử tổng thống hoàn toàn dựa trên chương trình chống dân da đen, không có gì khác. Ông kiếm được gần 20% phiếu, tuyệt đại đa số là cử tri DC, chia phiếu DC khiến ứng viên DC, PTT Hubert Humphrey thua ứng viên CH Richard Nixon.

Gần chúng ta hơn, dưới thời TT Bush cha, thẩm phán da đen Clarence Thomas được bổ nhiệm vào Tối Cao Pháp Viện trong sự chống đối bôi bác tàn tệ nhất của khối DC. Thời TT Reagan, quân lực Mỹ lần đầu tiên có một đại tướng bốn sao da đen, được bổ nhiệm Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân, tướng Colin Powell. Dưới thời TT Bush con, lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ, cả hai ngoại trưởng Colin Powell và Condoleezza Rice đều là dân da màu.

CH chủ trương tự túc tự cường, giảm thiểu tối đa những trợ cấp an sinh. DC chủ trương Nhà Nước vú em, trợ cấp tối đa. Trước hai chính sách đó, việc dân da màu gia nhập vào đảng DC nhiều hơn không có gì lạ, mà cũng không phản ánh đảng CH kỳ thị da màu. CH thật sự có thành kiến với dân da đen nói chung, nhưng không đóng cửa đuổi dân da đen có khả năng thật sự. Nhưng DC lại nhân danh bình đẳng màu da nâng đỡ quá nhiều dân da đen không có khả năng. Bắt các đại học phải nhận đủ túc số sinh viên đen, nếu cần thì phải hạn chế dân da khác, là kỳ thị ngược chiều chống những người có khả năng nhưng không phải da đen. Thẩm phán TCPV Thomas cho rằng luật bình đẳng này là sự sỉ nhục cho dân da đen vì coi như họ không đủ khả năng, cần phải có túc số bắt buộc để được nhận vào các trường.

2. “CH thúc đẩy cho các hãng bảo hiểm tụ lại từng tiểu bang, không cho dân của tiểu bang này mua bán bảo hiểm với các hãng bảo hiểm thuộc tiểu bang khác dù rằng các hãng bảo hiểm đó tốt và rẽ hơn…”
Nước Mỹ là một liên hiệp của 50 tiểu bang, mỗi tiểu bang đều có rất nhiều quyền hành trong các vấn đề tự trị nội bộ, như chính trị, xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa,... Chỉ có hai khu vực mà quyền hành của tiểu bang bị giới hạn là ngoại giao và quốc phòng.

Chuyện các công ty bảo hiểm hành nghề tại các tiểu bang hoàn toàn tùy thuộc vào luật lệ riêng biệt của mỗi tiểu bang. Các công ty muốn bán bảo hiểm y tế tại tiểu bang nào thì phải được tiểu bang đó chấp nhận, tức là phải tuân thủ luật bảo hiểm của tiểu bang đó, có thể rất khác xa từ tiểu bang này qua tiểu bang nọ.

CH không hề “không cho dân của tiểu bang này mua bán bảo hiểm với các hãng bảo hiểm thuộc tiểu bang khác”, mà đó là quy luật từng tiểu bang mà Hiến Pháp quy định trong tinh thần tôn trọng tính tự trị của các tiểu bang. Chuyện này chẳng liên hệ gì đến CH hay DC hết.

3. “CH đòi hỏi dân chúng phải tự mua bảo hiểm lấy khi họ còn nắm lấy chính quyền nhưng khi thời DC lên thì họ lại đổi vị thế, nhất định chống và cho rằng Obamacare là chương trình ép buộc dân chúng trái phép như các nhà độc tài, đi ngược lại hiến pháp của HK. Tới khi TCPV phán quyết rằng Obamacare hợp hiến thì làm bằng mọi cách để ko thực thi luật Obamacare rất ư là hợp hiến này.”

Câu chuyện Obamacare hợp hiến hay không phức tạp hơn nhiều.

TT Obama đưa ra luật cải tổ y tế, trên căn bản, điều khoản quan trọng nhất là bắt tất cả mọi người phải mua bảo hiểm y tế, ai không mua sẽ bị phạt. Khối bảo thủ và CH phản đối, coi như đây là hành động vi phạm tự do cá nhân, đồng thời cũng đã đi quá quyền hạn của chính quyền Liên Bang. Phe CH cũng tố cáo tiền phạt thực tế là một hình thức thuế liên bang, và nếu là thuế thì sẽ có nhiều hệ quả quan trọng, chẳng hạn như không đóng thuế thì có thể đi tù, có thể bị IRS sai áp nhà, khấu trừ lương.

Nhiều tiểu bang đã thưa kiện, và do không bên nào chịu thua bên nào, nên nội vụ đã lên tới Tối Cao Pháp Viện.

Quyết định của TCPV, đặc biệt là của thẩm phán John Roberts, Chủ Tịch TCPV, đã là một tuyệt tác của nghệ thuật đi dây chính trị, chẳng nghiêng về phe nào. TCPV phán quyết là Obamacare, theo như diễn giải của TT Obama, không mua bảo hiểm thì phải đóng tiền phạt là bất hợp hiến và không áp dụng được. Tuy nhiên, vì tiền phạt thực sự là một hình thức thuế, nên Obamacare trở thành hợp hiến, vì Hiến Pháp quy định chính quyền Liên Bang có quyền ra luật thu thuế trên cả 50 tiểu bang. Mặt khác, TCPV cũng phán chính quyền Liên Bang không có quyền áp đặt Obamacare lên các tiểu bang. Do đó, những chuyện như thành lập các trung tâm phối hợp –exchanges- cũng như bành trướng Medicaid, là thuộc thẩm quyền tiểu bang, và tiểu bang có quyền từ chối không thi hành.

Vấn đề rất phức tạp, nhưng đại cương là như thế.

Trở lại vấn đề vị độc giả nêu lên, trước hết chuyện CH “đòi hỏi” mọi người phải mua bảo hiểm, và TT Obama “bắt buộc” mọi người phải mua bảo hiểm nếu không sẽ phải đóng thuế thay thế, là hai chuyện khác nhau một trời một vực, khác nhau ở điểm “bắt buộc nếu không sẽ bị đóng thuế”, rồi không đóng thuế là đi tù, là điều CH không bao giờ chủ trương.

Sau đó, chuyện Obamacare vi hiến hay hợp hiến chỉ là vấn đề định nghiã của “tiền phạt”. Ông Roberts đã hết sức sáng tạo tìm ra giải pháp thỏa mãn phần nào cả hai bên, nhưng cũng gây bất mãn cho cả hai bên. TT Obama được thoả mãn vì Obamacare không bị thu hồi, nhưng bất mãn vì mang tiếng là chế ra một thứ thuế mới. Phe CH thỏa mãn vì chứng minh được tiền phạt đúng là tiền thuế, nhưng thua nặng hơn vì Obamacare không bị thu hồi.

Nhưng rồi phe CH cũng đã thắng điểm trong vấn đề thi hành Obamacare tại các tiểu bang, đưa đến chuyện cho đến nay, hơn hai chục tiểu bang vẫn không thi hành việc thành lập các trung tâm phối hợp và nới rộng Medicaid, một quyết định được TCPV nhìn nhận là hợp hiến.

4. “CH chủ trương đánh thuế lên kẻ đi làm … nhưng lại cho những kẻ đầu tư đóng thuế thật ít.”

Chủ trương “đánh thuế lên kẻ đi làm” chính là chủ trương của DC trong khi CH luôn luôn chủ trương càng bớt thuế càng tốt. Do đó, nói CH “chủ trương đánh thuế lên kẻ đi làm” là nói ngược ngạo vớ vẩn. Mức thuế thấp mà hầu hết mọi người đang hưởng là nhờ TT Bush cắt năm 2003. TT Obama đòi tăng thuế tất cả những ai có lợi tức trên $200.000. Phe CH kịch liệt phản đối, cuối cùng thoả thuận tăng thuế cho mức lợi tức từ $400.000 trở lên, giúp cho những người có lợi tức giữa $200.000 và $400.000 khỏi bị tăng thuế. Ai đòi đóng thuế lên kẻ đi làm nhiều hơn? Ai tranh đấu để cắt bớt thuế cho kẻ đi làm?


Nói CH muốn đánh thuế “kẻ đầu tư”, tức là nhà giàu “thật ít” cũng chỉ là cố tình bóp méo. CH cũng như DC đều chấp nhận hệ thống thuế lũy tiến, càng giàu, mức thuế đóng càng cao. Những người giàu nhất bây giờ đóng thuế ở mức 35% lợi tức, trung lưu đóng trung bình 15%-20%, và 40% dân không đóng một xu thuế nào. CH chống lại chủ trương của DC đòi tăng mức thuế cao nhất từ 35% lên 39,5%, chỉ có vậy thôi, chưa bao giờ CH đòi cho nhà giàu “đóng thuế thật ít”.

5. “CH đem những thanh niên ưu tú của HK đi "nướng" cho các mục đích cá nhân như Iraq, nhưng dối trá với dân chúng, với quốc hội và thế giới, làm trò cười cho thiên hạ cả ngàn năm.”

Câu chuyện Iraq là chuyện “viết lại lịch sử” thô bạo nhất. Dưới thời TT Clinton, từ những năm 1997-98, tất cả các chính khách và các viên chức an ninh, từ TT Clinton đến nội các, FBI, CIA, các dân biểu, nghị sĩ của cả hai đảng, và cả truyền thông, dựa trên tin tức của Giám Đốc CIA George Tenet, đều tin như đinh đóng cột là Saddam Hussein có và đã sử dụng vũ khí giết người tập thể.

Dưới đây là trích dẫn vài quan điểm thời đó của các lãnh tụ DC:

- “Chúng tôi khẩn khoản kêu gọi tổng thống, sau khi tham khảo với Quốc Hội, Hiến Pháp và các luật lệ hiện hành, lấy những hành động cần thiết để trả lời một cách hữu hiệu mối đe đọa từ Iraq do việc họ không từ bỏ các chương trình phát triển vũ khí giết người tập thể”. Thư gửi TT Clinton, ký bởi nhiều thượng nghị sĩ DC, trong đó có Joe Lieberman (Connecticut, cựu ứng viên PTT của Al Gore), Dianne Feinstein (California, chủ tịch Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện), Tom Daschle (South Dakota, Chủ Tịch Khối Đa Số DC tại Thượng Viện) và John Kerry (Massachusetts, cựu ứng viên tổng thống, đương kim Ngoại Trưởng). 9-1998.

- “Với tư cách thành viên Ủy Ban Tình Báo Hạ Viện, tôi biết rất rõ việc phát triển vũ khí hoá học và sinh học là một vấn đề hết sức quan trọng cho tất cả các quốc gia. Saddam Hussein đã tích cực phát triển kỹ thuật sản xuất vũ khí giết người tập thể, và đó là một mối đe dọa cho các nước trong vùng, và ông ta cũng đã coi thường mọi cuộc kiểm tra.” Nancy Pelosi (DB San Francisco, cựu chủ tịch Hạ Viện). 12-1998.

- “Cộng đồng thế giới có thể sẽ thấy càng ngày càng nhiều những đe dọa kiểu Iraq ngày nay: một nước ngựa chứng –rogue- với vũ khí giết người tập thể, sẵn sàng sử dụng hay cung cấp cho các tổ chức khủng bố những vũ khí đó. Nếu chúng ta không có đáp ứng bây giờ, Saddam và tất cả những tên muốn theo bước chân của ông ta sẽ cảm thấy mạnh dạn hơn trong tương lai.” Bill Clinton (Tổng Thống). 11-1998.

Đó là những tuyên bố trước 9/11, hơn hai năm trước khi Bush vào Tòa Bạch Ốc để có dịp “dối trá” với dân. Trong bối cảnh hậu 9/11, không một chính khách nào, nhất là tổng thống, dám lơ là chuyện Iraq nữa. Chuyện Saddam cung cấp vũ khí hóa học hay bom bẩn (bom nguyên tử “bỏ túi”) cho khủng bố để tấn công Mỹ giống như vụ 9/11 không phải là chuyện hoang tưởng không thể xẩy ra.

Khi TT Bush quyết định đánh Iraq, xin phép quốc hội dựa trên những tin tình báo của ông Xịa Tenet (do TT Clinton bổ nhiệm) cung cấp, cả hai viện quốc hội biểu quyết chấp thuận, trong đó có bà Hillary, ông Kerry, và hầu hết các dân cử tai to mặt lớn của đảng DC. Đích thân cựu TT Clinton tuyên bố ủng hộ hoàn toàn. Cựu PTT Al Gore là người cay cú TT Bush con nhất, phát biểu: “Iraq quả là một đe dọa cho sự ổn định của Vịnh Ba Tư và chúng ta cần phải tổ chức một liên minh quốc tế để ngăn cản Saddam có thể tiếp cận vũ khí giết người tập thể”. Có thể hiểu nếu ông Gore đắc cử tổng thống, thì ông cũng đã vận động một liên minh quân sự và đánh Iraq như TT Bush thôi.

Sau khi TT Bush thất bại không mau chóng ổn định được tình hình, dân Mỹ sốt ruột, bắt đầu chống, thì các chính khách DC nhẩy rào, quay qua tố bị TT Bush “lừa” mặc dù họ đã lớn tiếng báo động chống Saddam từ khi Bush còn đang ở Texas.

6. “Con số theo đảng CH phần đông là vô học, chỉ có bằng Trung học trở xuống, vùng quê, xa thành thị và ở những nơi mà kỳ thị nhiều, trường học kém.”

Đây là một kết luận “mới lạ”. Thực tế ai cũng biết một số lớn cử tri của DC là dân da đen, dân gốc Nam Mỹ, dân nhập cư da vàng, dân lao động, thường tập trung tại trung tâm (downtown) các thành phố lớn, là những nơi có những vấn đề “trường học kém” nặng nề nhất. Khó ai có thể khẳng định đây là những thành phần học thức cao so với dân “CH vô học”.

Đại khái dân Mỹ chia ra như sau: 50% da trắng trung lưu tốt nghiệp trung học, 25% da trắng trí thức tốt nghiệp đại học, 25% dân thiểu số da đen, da nâu, da vàng. Thành phần đầu thiên về CH, hai thành phần sau thiên về DC. Hai bên nghiêng ngửa 50-50. Chính vì vậy mà tranh cử tổng thống luôn luôn nghiên ngửa khít khao mức 50-50. TT Obama đắc cử nhờ phiếu của 98% dân da đen, 75% dân gốc Nam Mỹ, 70% dân da vàng, 60% sinh viên. TĐ Romney thua vì chỉ có 40% dân da trắng trung lưu đi bầu. Phần lớn họ nằm nhà vì Romney không có gì hấp dẫn lắm, trong khi Obama thì không đến nỗi đáng ghét lắm. Thôi thì ... tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, nằm nhà cho xong.

Chính trị nội bộ Mỹ dưới chính quyền Obama đã trở thành phân hoá hơn bao giờ hết trong lịch sử cận đại Mỹ.

Thật ra chuyện phân hoá không có gì lạ. TT Clinton dù là người có lập trường tương đối ôn hoà, đã bị đối lập đánh phá tàn bạo. Vụ Monica đã bị khai thác, đến độ quá đáng bị phản ứng ngược, dân chúng thấy tội nghiệp cho ông Clinton, đâm ra ủng hộ ông mạnh hơn. Đến thời TT Bush thì tuy ông không bị đàn hạch, nhưng sự chống đối của đối lập cấp tiến còn tệ hơn vậy. Ông bị thoá mạ đủ chuyện (thằng ngốc của làng, con khỉ, Hitler,... bây giờ đố anh nào dám bôi bác Obama như vậy?). Đến cái ông tổng thống Carter mà cũng còn dám tuyên bố Bush con là tổng thống dở nhất lịch sử Mỹ, quên mất là mình chỉ có một nhiệm kỳ đã bị mời về hưu non.

Chinh trị phe nhóm đã thống trị cả nước, phần lớn dựa trên guồng máy tuyên truyền, bên nào tuyên truyền giỏi, bên đó thắng, bất kể sự thật. Cho đến bây giờ, coi như đảng DC thắng lớn.

TT Obama, là người ra tranh cử năm 2007-08 với chiêu bài đoàn kết toàn dân, lại là người tạo phân hoá nhiều nhất. Phương thức tranh cử của ông trong kỳ bầu cử vừa qua đã dựa phần lớn trên những lập luận có tính cách xuyên tạc, hù dọa, tô vẽ TĐ Romney như một ác qủy đối với dân nghèo, dân da màu, và dân lao động. Chẳng phải cá nhân TĐ Romney, mà cả đảng CH đã được tô vẽ như một thứ đảng phát-xít tái sinh, bóp méo đủ chuyện, như đã bàn trong hai bài viết này.

Hy vọng hai bài này đã giúp độc giả thấy được một khiá cạnh khác của CH, khác với hình ảnh mà truyền thông dòng chính cấp tiến đã phổ biến từ bao lâu nay, khiến không ít người tin là sự thật tuyệt đối.

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Reader's Comment
12/20/201504:45:39
Guest
Càng đọc càng thấy vị độc giả này ngây ngô và nhảm nhí quá.
Cứ bảo người VN trong nước lạc hậu, dốt nát. Sống ở xứ tự do dân chủ nhất TG mà còn thế này??
6/4/201317:07:09
Guest
Chỉ là hadcore dân chủ chuyên lên án thành phần đói lập với mình những điều nhảm nhí,phi logic . Cám ơn VL đã vạch mặt cái mâu thuẫn trong lý lẽ của họ.
Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Khi còn tại chức, không ít lần, T.T Nguyễn Xuân Phúc đã khiến cho dân tình hoang mang hay bối rối khi nghe những câu chữ rất lạ kỳ: “Quảng Ninh là đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Vĩnh Phúc sẽ vươn lên trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Long An phải trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước’, ‘Hải Phòng là đầu tàu quan trọng của cả nước’, ‘Bình Dương phải là đầu tàu phát triển kinh tế mạnh nhất của cả nước …”
Nhưng 64 năm sau (1960-2024), đảng đã thoái hóa, biến chất. Đảng viên thì tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống tự diễn biến và tự chuyển hóa, bài bác Chủ nghĩa Mác-Lênin và cả “tư tưởng Hồ Chí Minh” nữa...
Một tuần sau, sau khi dư luận nổi sóng về phát biểu của thiếu niên Chu Ngọc Quang Vinh (“tôi coi đảng như một thế lực xấu chỉ biết lừa gạt dân”) tạm lắng – hôm 7 tháng 9 vừa qua – nhà văn Phạm Đình Trọng kết luận: “Sự việc cho thấy người dân, nhất là thế hệ trẻ đã có nhận thức sâu sắc về pháp luật, có ý thức về sự có mặt của cá nhân trong cuộc đời, trong xã hội”.
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.