Hôm nay,  

Chân Dung Triệu Phú Á Châu

06/03/201300:00:00(Xem: 6252)
Như một thế cực hoán đổi tập trung mới trong xu hướng phát triển toàn cầu, chính Hoa Kỳ và phương Tây đã thừa nhận rằng đang đặc biệt lưu tâm các vấn đề Á Châu với những chính sách đối ngoại, quân sự, kinh tế, xã hội. Một trong những vấn đề này là sự phát triển kinh tế tại Á Châu trong hơn một thập niên qua, mà kết quả đã tạo ra một giới tân triệu phú thành công về phương diện tài chính, giàu sức tiêu thụ. Năm 2012 vừa qua, lần đầu tiên con số triệu phú tại Á Châu đã qua mặt khu vực Bắc Mỹ, theo như báo cáo thường niên của Royal Bank of Canada và tổ chức phân tích Capgemini. Hãy xem qua chân dung của lớp tân trọc phú Á Châu này và xu hướng tiêu xài của họ như thế nào?

Tiêu chuẩn để đánh giá một gia đình triệu phú là, những gia đình này có tiền đầu tư hay tiền mặt trong ngân hàng tối thiểu trên một triệu đô la, không kể bất động sản và những tài sản khác. Trong khi số triệu phú tại khu vực Bắc Mỹ bị sụt giảm trong năm qua còn 3.35 triệu gia đình và Châu Âu có khoảng 3.1 triệu gia đình thì tại Á Châu, số gia đình triệu phú này đã tăng lên 3.7 triệu gia đình. Tất nhiên đây chỉ là một số liệu tương đối nếu so về tỉ lệ dân số, tuy nhiên những số liệu này đã cho thấy một sự thay đổi đáng kể trong hơn một thập niên qua, khi những con rồng Châu Á đã bắt đầu vươn lên sự giàu sang mà các các quốc gia phương Tây đã thừa hưởng vài chục năm qua. Quả có những lý do, khi trong các phát biểu chính thức từ các nguyên thủ các quốc gia phương Tây trong vài năm qua, Châu Á được nhắc đến như một khu vực phát triển nhiều mặt để từng bước trở thành đối trọng với phương Tây.

Không cần biết lý do gì đã đem lại sự giàu có của một giới triệu phú Á Châu hay người dân tại lục địa này nói chung, đây là một thị trường béo bở cho các tập đoàn sản xuất và tiêu thụ thương phẩm phương Tây về một thị trường mới, giàu sức tiêu thụ trong khi sức tiêu thụ tại các quốc gia phát triển đã bão hòa. Theo các khảo sát thị trường của các tổ chức tiêu dùng quốc tế, như tại Tokyo, khoảng 94% các cô gái độ tuổi ngoài 20 đều sở hữu túi xách Louis Vuitton, trong khi các thương hiệu thời trang như Gucci và Hermes Birkin đã mở nhiều tiệm tại Hongkong hơn tại Paris, Ấn Độ thì giới có tiền phải đặt hàng cả ba tháng mới có những hàng hiệu đắt tiền. Và khó có một dealer xe BMW nào có thể bán đến 350 chiếc xe mỗi tháng như một dealer BMW tại Singapore, trong khi những loại xe này có giá tiền trên trăm ngàn đô la sau khi chịu các loại thuế xa xỉ tại các quốc gia này. Nhưng hơn hết, 10% các thương phẩm xa xỉ, đắt tiền của thế giới là được tiêu thụ tại Hoa Lục, nơi được xem là thị trường xa xí phẩm hàng đầu của thế giới hiện nay, khi trong năm qua đã mua sắm khoảng 27 tỉ đô la. Nhìn chung, Á Châu đã tiêu thụ hết một nửa, khoảng 40 tỉ đô la hàng hoá đắt tiền, xa xỉ của kỹ nghệ xa xí phẩm tổng thu 80 tỉ của cả thế giới. Nên quả có lý do để các thương hiệu tên tuổi như Ferrari, Lamborghini, Chanel, Rolex... đang đổ dồn sang thị trường phục vụ các tân "trọc phú" này, các 'thượng đế" của họ.

Các hãng chế tạo thương phẩm đắt tiền xem đây là một thị trường béo bở và họ có đủ khả năng để hiểu và khai thác về tâm lý tiêu dùng tại các quốc gia này. Nếu cơn sốt "hàng hiệu" này đã xảy ra vào thập niên 80, 90 tại các quốc gia Á Châu phát triển đầu tiên như Nhật Bản, Đài Loan và Nam Hàn, thì hiện nay họ đang nhắm đến Hoa Lục, Thái Lan, Malaysia..., đặc biệt các thị trường "mới tinh" như Việt Nam, Ấn Độ, Indonesia, nơi mà khoảng cách giàu nghèo đầy cách biệt nhưng vẫn có một giới trọc phú sẵn sàng vung tiền cho các món hàng này. Những quốc gia như Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Singapore kể trên, dù đủ "giàu" để vượt qua những vấn đề "đẳng cấp" nhưng vẫn còn là những thị trường tiêu thụ tốt vì họ có một lớp triệu phú thật sự, cũng như đời sống người dân khá giả, có những nhu cầu tiêu thụ cao. Còn các quốc gia trong vùng, đặc biệt như Hoa Lục, Việt Nam, phần lớn đồng tiền mà giới trọc phú từ chân đất qua đêm thành triệu phú này có được, không đến từ những con đường tài năng mà do những đặc quyền hay sự nhũng nhiễu, thao túng trong tranh sáng tối của một nền kinh tế thị trường chớm nở, họ thừa tiền cho nhiều hơn những thứ này. Louis Vuittton hiện đang có hai cửa tiệm tại Sài Gòn và Hà Nội, trong khi Chanel vừa bước vào thị trường VN hồi giữa năm qua, khi mở một tiệm sang trọng bề thế tại khách sạn Rex, ngay trung tâm Sài Gòn. Không cần biết đó một giới có tiền mới hay một "chân dài" của "đại gia", cứ đủ sức mua một túi xách đôi ba ngàn đô, sẽ được phục vụ tận tình. Vì các hãng này thấu hiểu thứ "văn hóa bề ngoài" của Á Châu, cho biết "anh là ai" qua xe cộ, túi xách, đồng hồ, đồ trang sức, không chỉ với giới triệu phú mà ảnh hưởng cả đến giới trung lưu hay thấp hơn, sẵn sàng chi những số tiền vượt quá khả năng hay vị thế xã hội của mình để "khẳng định đẳng cấp". Những thứ kém phổ biến hơn vì mức tiêu thụ giới hạn, nhưng vẫn nằm trong danh sách tiêu thụ tại Á Châu như máy bay cá nhân, du thuyền, cho đến các bộ tranh sưu tập, đồ cổ mà giới mua cũng thuộc giới trọc phú hơn là giới thượng lưu, chuộng nghệ thuật.


Sau những vấn đề "hàng hiệu" thì giới có tiền này đã bắt đầu tham gia những chuyến nghỉ mát dài ngày đến thế giới phương Tây, thay vì chỉ quanh trong các quốc gia trong vùng. Vốn có tiền và việc khai thác lợi nhuận du lịch tại các quốc gia phương Tây, việc cấp visa đã trở nên dễ dàng hơn. Đến những thành phố du lịch nổi tiếng tại Hoa Kỳ như New York, Las Vegas, San Franciso, Hawaii hay sang đến Paris, London tại Châu Âu, người ta dễ dàng nhận thấy nhiều đoàn du khách Á Châu đi theo từng nhóm có hướng dẫn viên nói bằng tiếng bản xứ của họ. Chỉ trong năm qua, du khách từ Hoa Lục đã bơm vào kinh tế Mỹ khoảng 8 tỉ đô la, theo số liệu của Bộ Thương Mại HK và cũng theo số liệu này, ước tính sẽ tăng gần ba lần vào năm 2016. Mỗi du khách Á Châu này ước tính trung bình đã tiêu khoảng 6,000 đô la khi vào Mỹ. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mở thêm 50 văn phòng cấp visa tại Hoa Lục, cho những người đã từng được cấp visa đến Mỹ trong vòng 4 năm trước không cần phải đến phỏng vấn trực tiếp mà chỉ cần nộp đơn qua internet. Nhiều hệ thống khách sạn lớn tại Mỹ như Marriott và Hilton đã có những bộ ấm trà, đồ dùng, bảng hướng dẫn in bằng chữ Hoa. Họ tránh dùng màu đen trắng tang tóc theo quan niệm Á Châu mà thay bằng màu đỏ may mắn khi phục vụ du khách Á Châu này, cũng như hiểu rõ rằng không để du khách đến từ Hoa Lục ở tầng lầu số 4 vì nó đọc nghe như chữ "chết" trong Hoa ngữ, mà thay vào đó là tầng số 8, con số may mắn của họ.

Giới triệu phú này cũng có xu hướng đầu tư địa ốc ra nước ngoài nhiều hơn. Từ những căn nhà trị giá vài trăm ngàn đô cho đến những trung tâm thương mại, khách sạn, khu nghỉ mát, lô đất trị giá vài chục triệu đô. Sự phát triển tại Á Châu đã đẩy giá địa ốc tại khu vực này lên cao ngất ngưởng, không riêng những thành phố vốn nổi tiếng về sự đắt đỏ như Tokyo, Hồng Kông, Thượng Hải..., mà đến cả Phnom Penh, Sài Gòn, Jakarta... Như tại Việt Nam, giá một căn chung cư trong các chung cư cao tầng "cao cấp" tại Sài Gòn hay Hà Nội đã có lúc đến khoảng 3,000 đô/mét vuông, tức gần $300/sq ft. Các lý do đầu tư cũng khác nhau, trong khi giới giàu có người Nhật đầu tư địa ốc vào Mỹ vì họ không muốn đầu tư thêm vào địa ốc ngay chính quốc gia mình, nơi động đất có thể xảy ra thường xuyên, thì giới có tiền tại Hoa Lục hay Việt Nam mua nhà tại Mỹ với lý do đơn giản hơn: cho con cái đang du học ở, vừa khỏi mất tiền thuê nhà vừa đầu tư vào một mội trường ổn định, an toàn. Theo ước tính của một phân tích gia tài chính trên Wall Street Journal, dân triệu phú Á Châu đầu tư khoảng 10-25% tài sản của họ tại Hoa Kỳ. Mỹ và Canada có chính sách nhập cư cho những người đầu tư từ một triệu đô la hay chỉ cần 500,000 đô la, tùy theo loại đầu tư, để "hút" tiền vào mình.

Tin hay không về sự trở mình tại Á Châu thì thị trường tiêu thụ tại đây là một thị trường có thật, mới mẻ và đầy "hào phóng", nhất là khi con số triệu phú tại lục địa này đang tiếp tục gia tăng. Trong khi vẫn còn tình trạng nhập siêu, tức nhập cảng cao hơn xuất cảng, thì trong năm qua Mỹ đã xuất cảng tăng gấp nhiều lần sang những quốc gia Châu Á, đặc biệt với Hoa Lục, Ấn Độ, Việt Nam... so với các năm trước. Thấu hiểu về thị trường, văn hoá, tâm lý tiêu dùng..., liệu có phải đây là một "cuộc chiến kinh tế" âm thầm đồng thời với chính sách ngọai giao, quân sự, để Hoa Kỳ từng bước tạo lại ảnh hưởng và vị thế của mình tại châu lục này thay vì chỉ vũ khí, súng đạn, cấm vận... như trước đây. Những chiêu thức ngoại giao xem như hoà hoãn của Hoa Kỳ tại khu vực Á Châu này không phải không có ý đồ của nó.

Đinh Yên Thảo

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ còn vỏn vẹn chưa đầy ba tuần nữa là ngày bầu cử. Cho đến hôm nay, ai nói, cũng đã nói. Ai làm, cũng đã làm. Nói nhiều hay ít, và làm nhiều hay ít, cũng đã thể hiện rõ ràng. Trừ khi, như một cựu ký giả của tờ Sóng Thần trước năm 1975, hiện đang sinh sống ở Virginia, nói rằng: “Có thể họ không lên tiếng trước công chúng, nhưng ngày bầu cử, lá phiếu của họ dành cho đảng đối lập.” Vị cựu nhà báo này muốn nói đến cựu tổng thống Hoa Kỳ, George W Bush, vị tổng thống duy nhất thuộc đảng Cộng hoà còn tại thế.
Hoa Kỳ luôn được tôn vinh là một cường quốc tích cực tham gia trong mọi sinh hoạt chính trị quốc tế, nhưng lịch sử ngoại giao đã chứng minh ngược lại: Hoa Kỳ từng theo đuổi nguyên tắc bất can thiệp và cũng đã nhiều lần dao động giữa hai chủ thuyết quốc tế và cô lập. Trong việc thực thi chính sách đối ngoại trong thế kỷ XX, Hoa Kỳ mới thực sự trực tiếp định hình cho nền chính trị toàn cầu, lãnh đạo thế giới tự do và bảo vệ nền an ninh trật tự chung. Nhưng đối với châu Âu, qua thời gian, vì nhiều lý do khác nhau, càng ngày Hoa Kỳ càng tỏ ra muốn tránh xa mọi ràng buộc càng tốt.
Tiếng Việt không ít những thành ngữ (ví von) liên hệ đến đặc tính của nhiều con vật hiền lành và quen thuộc: ăn như heo, ăn như mèo, nhát như cáy, gáy như dế, khóc như ri, lủi như trạch, chạy như ngựa, bơi như rái, khỏe như voi, hỗn như gấu, chậm như rùa, lanh như tép, ranh như cáo, câm như hến …Dù có trải qua thêm hàng ngàn hay hàng triệu năm tiến hóa, và thích nghi để sinh tồn chăng nữa – có lẽ – sóc vẫn cứ nhanh, sên vẫn cứ yếu, cú vẫn cứ hôi, lươn vẫn cứ trơn, đỉa vẫn cứ giai, thỏ vẫn cứ hiền, cá vẫn cứ tanh, chim vẫn cứ bay, cua vẫn cứ ngang (thôi) nhưng hến thì chưa chắc đã câm đâu nha.
Khi thiên tai đổ xuống, thảm họa xảy ra, và con người với khả năng chống đỡ có giới hạn, thì những gì nhân loại có thể làm là cứu nhau. Ngược lại với nguyên tắc tưởng chừng như bất di bất dịch của một thời đại mà con người luôn hướng đến hòa bình và lương thiện, lại là các thuyết âm mưu tạo ra để lan truyền thù ghét và mất niềm tin vào chính quyền đương nhiệm. Đại dịch Covid-19 vĩnh viễn là sự thật của lịch sử Mỹ, trong triều đại của Donald Trump. Tòa Bạch Ốc của Trump lúc ấy, qua lời mô tả của những nhân viên trong ngày dọn dẹp văn phòng làm việc để bắt đầu bước vào giai đoạn “work from home” là “ngôi nhà ma.” Giữa lúc số người chết tăng theo từng giây trên khắp thế giới thì Trump vẫn điên cuồng xoay chuyển “tứ phương tám hướng” để kéo người dân quay về một góc khác của đại dịch, theo ý của Trump: “Covid không nguy hiểm.”
Mặc dù các bác sĩ tâm thần có bổn phận bảo mật các thông tin sức khỏe tâm thần do bệnh nhân tiết lộ, nhưng hầu hết các tiểu bang tại Hoa Kỳ đều có luật bắt buộc hoặc cho phép bác sĩ tâm thần tiết lộ thông tin bí mật khi bệnh nhân có triển vọng gây tổn hại cho cộng đồng...
Trong tuần lễ cuối cùng của chiến dịch tranh cử tổng thống vào năm 1980 giữa Tổng Thống Đảng Jimmy Carter (Dân Chủ) và ứng cử viên Ronald Reagan (Cộng Hòa), hai ứng cử viên đã có một cuộc tranh luận duy nhất vào ngày 28 tháng 10. Trong cuộc tranh luận, Reagan đã nêu ra một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong mọi thời đại: “Hôm nay quý vị có khá hơn bốn năm trước hay không?” Câu trả lời của Carter là “KHÔNG." Cùng với một số lý do không kém quan trọng khác, số phiếu của ông đã giảm xuống vào những ngày quan trọng cuối cùng của chiến dịch tranh cử. Reagan đã giành được số phiếu phổ thông lớn và chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Nobel là một giải thưởng cao qúy nhưng đó không phải là tất cả hay tối thượng mà, xét cho cùng, mục tiêu của nền văn học quốc gia hay bất cứ lĩnh vực nào khác đâu nhất thiết là hướng tới giải Nobel? Mahatma Gandhi đã năm lần bị bác giải Nobel Hoà Bình nhưng so với một Henry Kissinger hí hửng ôm nửa cái giải ấy vào năm 1973, ai đáng ngưỡng mộ hơn ai? Tuyên ngôn Nobel Văn Chương 1938 vinh danh nhà văn Mỹ Pearl Buck về những tác phẩm “diễn tả xác thực đời sống của nông dân Trung Hoa” nhưng, so với Lỗ Tấn cùng thời, nhà văn không chỉ diễn tả xác thực đời sống mà cả tâm não của người Trung Hoa, ai để lại dư âm lâu dài hơn ai?
Nếu mũ cối là biểu tượng của thực dân Tây phương vào thế kỷ 18 thì, bây giờ, “năng lượng tích cực”, như là diễn ngôn của thực dân Đại Hán với những dấu ấn đậm nét của tân hoàng đế Tập Cận Bình, đã trở nên gắn bó với người Việt, từ diễn ngôn của thể chế cho đến giọng điệu ngôn tình của những đôi lứa bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa hôn nhân.
AI là trí tuệ nhân tạo. AI là một kho kiến thức nhiều vô cùng vô tận, đã siêu xuất chứa đựng nhiều thư viện nhân loại hơn bất kỳ dữ liệu tri thức nào, và cứ mỗi ngày AI lại mang thêm nhiều công năng hữu dụng, mà một người đời thường không thể nào có nổi kho tri thức đó. Trong khi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một nhà sư phi thường của dân tộc, với những tri kiến và hồn thơ (như dường) phong phú hơn bất kỳ nhà sư nào đã từng có của dân tộc Việt. Câu hỏi là, AI có thể biểu hiện như một Tuệ Sỹ hay không? Chúng ta có thể gặp lại một phong cách độc đáo của Tuệ Sỹ trong AI hay không? Thử nghiệm sau đây cho thấy AI không thể sáng tác được những câu đối cực kỳ thơ mộng như Thầy Tuệ Sỹ. Để thanh minh trước, người viết không phải là khoa học gia để có thể hiểu được vận hành của AI. Người viết bản thân cũng không phải học giả về kho tàng Kinh Phật để có thể đo lường sự uyên áo của Thầy Tuệ Sỹ.
Israel và Iran đã âm thầm chống nhau trong một thời gian dài. Nhưng nhiều diễn biến sôi động liên tục xảy ra gần đây làm cho xung đột giữa hai nước leo thang và chiến tranh có nguy cơ bùng nổ và lan rộng ra toàn khu vực. Điển hình là vào tháng 4 năm nay, Iran công khai tấn công bằng tên lửa vào lãnh thổ Israel. Đầu tháng 10, Israel đã tấn công bằng bộ binh ở miền nam Lebanon. Trước đó, trong cuộc không kích vào trụ sở dân quân Hezbollah ở Beirut, Israel đã tiêu diệt thủ lĩnh Hezbollah là Hassan Nasrallah và nhiều nhân vật quan trọng khác.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.