Hôm nay,  

Phạm Duy: Việt Nam Hai Câu Nói Sau Cùng Khi Lìa Đời

30/01/201300:00:00(Xem: 12238)
Cuối tháng Tư 1975, tôi rời Việt Nam trên một con tàu không máy được kéo ra khỏi bờ sông Sài Gòn từ bến kho 5. Khi tàu tách bến, nhìn thành phố bập bùng khói lửa, nước mắt rưng rưng và lòng thầm hát:

Chiều nay sương khói lên khơi
Thùy dương rũ bến tơi bời
Làn mây hồng pha rán trời
Sóng Đà giang thuyền qua xứ người…

Lời ca theo tôi trên một hành trình vô định. Cho đến khi tới được Hoa Kỳ và biết rằng nhạc sĩ Phạm Duy, tác giả của “Thuyền viễn xứ”, cũng đã bỏ nước ra đi.

Với ông, đó là một lần nữa bỏ quê hương, sau lần rời Bắc vào Nam sinh sống hơn 20 năm trước đó. Lần xa quê này ông chỉ mang theo được người bạn đời là ca sĩ Thái Hằng và những cô con gái là Thái Hiền, Thái Thảo và Thái Hạnh, còn các con trai Duy Quang, Duy Minh, Duy Hùng, và Duy Cường đều kẹt lại.

Nơi quê người, khởi đầu định cư ở Pensacola, tiểu bang Florida. Sau một thời gian ngắn Phạm Duy đưa gia đình về Midway City – mà ông gọi là “Thị trấn Giữa đàng” – nằm ngay cạnh Westminster, thủ phủ của người Việt ở miền nam California. Ở đó gia đình Phạm Duy thường đi rong hát xẩm, là cách gọi của ông khi nói về những chuyến ôm đàn đi hát cho đồng hương ở Mỹ nghe.

Những năm ở nước ngoài Phạm Duy viết được một số ca khúc và đã thu âm vào những băng, đĩa nhạc: Ngục ca, Bầy chim bỏ xứ, Rong ca, Thiền ca, Hàn Mặc Tử ca.
buivanphu_20130129_phamduy_vb_h01_ucb_1995
Phạm Duy, hình chụp tháng 11-1995 tại ĐH Berkeley trong dịp ông đến nói chuyện và ra mắt CD “Trường ca con đường cái quan.” (ảnh Bùi Văn Phú).
Sống đời lưu vong ông luôn hướng về quê nhà. Năm 1978 ông viết lên ca khúc “Ở bên nhà em không còn đứng chờ đợi anh” là những cảm xúc sâu lắng được nhiều người tị nạn chia sẻ:

Ở bên nhà đôi tay ngà em vục bùn đen
Ở bên nhà đôi môi mềm thu vạn tủi oán
Ở bên này sống với ác mộng
Từng đêm ngày anh ra biển rộng khóc thương em.

Hai lần phải bỏ quê hương ra đi được ông ghi lại trong ca khúc: “54 cha bỏ quê, 75 con bỏ nước”:

Một ngày 54, cha lìa quê hương
Lánh Bắc vô Nam, cha muốn xa bạo cường
Một ngày 75, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương!...
Một ngày 75, con bỏ hết giang sơn
Hai mươi năm tình, yêu người yêu cuộc sống
Giờ nơi nước mình niềm đau thay nỗi vui
Sài Gòn đã chết rồi, phải mang tên xác người…
Đời hai lần ta bỏ quê bỏ nước
Phải nuôi ngày sau về ôm Tổ Quốc.

Đầu năm 2004 trong một cuộc phỏng vấn dành cho người viết bài này, khi hỏi cảm nhận và so sánh giữa bỏ quê hương ra đi trong “Thuyền viễn xứ” và “54 cha bỏ quê, 75 con bỏ nước”, Phạm Duy từ chối trả lời câu hỏi này như để tránh rắc rối cho việc nhạc sĩ đang chuẩn bị chuyến trở về sống hẳn ở cố hương.
buivanphu_20130129_phamduy_vb_h02_dvdngaytrove
DVD ca nhạc chủ đề “Ngày trở về của Phạm Duy” do hãng phim Phương Nam phát hành. (ảnh Bùi Văn Phú)
Sau ba mươi năm lưu vong, tháng 5-2005 Phạm Duy đã “về ôm Tổ quốc”. Quyết định của ông được nhà nước Việt Nam hoan nghênh. Một số người Việt hải ngoại lên án ông.

Từ khi ông trở về, trong nước thỉnh thoảng có những chương trình nhạc Phạm Duy tổ chức tại Hà Nội và Sài Gòn. Một vài đầu sách và đĩa chương trình ca nhạc của ông cũng được phát hành. Tuy nhiên vẫn có những văn nghệ sĩ, nhà báo trong nước chỉ trích quá khứ của Phạm Duy, nào là đã bỏ kháng chiến về thành, vào nam sinh sống, đã ca ngợi chế độ Việt Nam Cộng hoà, rồi lại bỏ nước ra đi khi chiến tranh chấm dứt, như thế Phạm Duy – “tên phù thủy âm nhạc” như cán bộ văn hoá từng đặt cho ông – không xứng đáng được vinh danh là một nhạc sĩ tài ba của nền âm nhạc Việt Nam.

Với cả ngàn bài ca, núi nhạc của Phạm Duy sừng sững như dãy Trường Sơn mà người Việt nào cũng thấy bóng hình mình ẩn hiện trên đó. Đó là “Bà mẹ quê”, “Em bé quê” là “Tuổi ngọc”, Tuổi biết buồn”. Đó là đồng lúa, là tà áo dài, vòng quay xe đạp, là mảnh áo nâu, là quang gánh trên vai. Không như Trịnh Công Sơn viết về thân phận và huyền thoại quê hương trong một giai đoạn chiến tranh nhất định, nhạc Phạm Duy dạt dào tình yêu quê hương, nổi bật với những hình ảnh thật gần gũi với mọi người. Hãy nghe ông viết về đất nước:

buivanphu_20130129_phamduy_vb_h03_ngucca
Ngục ca. Phạm Duy phổ nhạc thơ Nguyễn Chí Thiện. (ảnh Bùi Văn Phú)
Quê hương tôi có con sông đào xinh xắn
Nước tuôn trên đồng vuông vắn
Lúa thơm cho đủ hai mùa
Dân trong làng trời về khuya vẳng tiếng lúa đê mê.
Quê hương ơi bóng đa ôm đàn em bé
Nắng trưa im lìm trong lá
Những con trâu lành trên đồi nằm mộng gì
Chờ nghe tôi thổi khúc sáo chơi vơi…

Không nhạc sĩ nào đã đưa sông nước, đồng lúa, trâu cày, bóng đa đầu làng vào lòng người một cách êm đềm và tình tự như Phạm Duy để rồi những ai sống xa quê hương khi nghe mà không thương, không nhớ.

Hay như hình ảnh tà áo dài, chiếc xe đạp của tuổi thơ sao thật dễ thương:

Xin cho em một chiếc áo dài
Cho em đi mùa xuân tới rồi
Mặc vào người rồi ra
Ngồi lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tiểu thơ.
Xin cho em môt chiếc xe đạp
Xe xinh xinh để em đi học
Từng vòng từng vòng xe
Là vòng đời nhỏ bé
Đạp bằng bàn chân gót đỏ hoe.
buivanphu_20130129_phamduy_vb_h04_vietnamvietnam
“Việt Nam, Việt Nam” trong tập bài hát sinh hoạt sinh viên Bắc California năm 1980. (ảnh Bùi Văn Phú)
Ca từ của ông vẽ lên quê hương, lịch sử nước nhà như một bức hoạ đẹp tuyệt vời qua trường ca “Con đường cái quan”:
Tôi đi từ Ải Nam Quan sau vài ngàn năm lẻ

Chia đôi một họ trăm con đã lên đường…
Về Hà Tiên ta tiễn Chúa ra đảo khơi
Về Cà Mau ta đốt biết bao lửa vui.

Nhạc Phạm Duy đến với tôi vào những năm giữa thập niên 1960 khi còn học cấp 2. Đầu tiên là tiếng dân ca “Qua cầu gió bay” với nét vui đùa, là “Giọt mưa trên lá” mang mang buồn, trước khi biết rung động theo những bóng hình ở sân trường, biết mơ mộng một mối tình vu vơ qua “Nghìn trùng xa cách”, “Thà như giọt mưa”, “Trả lại em yêu”, “Còn chút gì để nhớ”, “Con đường tình ra đi”, “Nha Trang ngày về”, “Tóc mai sợi vắn sợi dài”…
buivanphu_20130129_phamduy_vb_h05_loichaobinhyen
“Bình ca” trong tập nhạc sinh hoạt do sinh viên Việt Nam tại Cộng hòa Liên bang Đức ấn hành năm 1974. (ảnh Bùi Văn Phú)
Khi có nhận thức và hiểu biết về lịch sử nước nhà, về văn hoá dân tộc thì nhạc Phạm Duy như xoáy xoay vào hồn với trường ca “Mẹ Việt Nam”, trường ca “Con đường cái quan” với 10 bài “Đạo ca” với bài “Tình ca” bất hủ: 

Tôi yêu tiếng nước tôi
Từ khi mới ra đời người ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời…
Tiếng nước tôi
Bốn nghìn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi…

Trong nửa thế kỉ qua, nhạc Phạm Duy đã theo bước chân người Việt đi khắp nơi với yêu thương qua những cuộc tình, với quê hương biết bao niềm nhớ, với tình tự dân tộc nơi quê người hay ngay cả trên quê hương đã sinh ra ông, dù vẫn còn những ngăn cấm.

Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5-10-1921 tại phố Háng Cót, Hà Nội và qua đời tại Sài Gòn hôm 27-1-2013, thọ 93 tuổi.
buivanphu_20130129_phamduy_vb_h06_sanjose_1998
Đêm nhạc “Văn Cao, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn” tổ chức ở San Jose tháng 10-1998 với Bích Liên, bên trái, Khánh Ly, Mai Hương, Phạm Duy và Nguyễn Thanh Vân. (ảnh Bùi Văn Phú)
Như thế ông đã trọn vẹn với ước nguyện thể hiện khi ông viết bản đồng ca – mà ông gọi là chung khúc “Việt Nam, Việt Nam” – trong trường ca “Mẹ Việt Nam” đã được rất nhiều người Việt biết đến:

Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời
Việt Nam, hai câu nói bên vành nôi
Việt Nam nước tôi…
Việt Nam, Việt Nam tên gọi là người
Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời.

Năm 1995, trong dịp đến Đại học Berkeley nói chuyện với sinh viên nhạc sĩ Phạm Duy đã phát biểu: "Nhạc của tôi đi vào lòng người thì dễ, nhưng đi vào lòng ông Đỗ Mười sao khó thế!”. Lúc đó ông Đỗ Mười là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mười tám năm sau, hầu hết nhạc của ông dường như vẫn chưa dễ gì lọt được vào lòng giới lãnh đạo Hà Nội.

Dù ông đã hồi tịch, được cấp chứng minh nhân dân, mua nhà ở. Dù ông đã nhiều lần phát biểu hết lòng ca ngợi chính sách hoà giải của nhà nước, nhưng cho đến lúc nhắm mắt lìa trần, gia tài âm nhạc của Phạm Duy với cả ngàn bài ca cũng mới chỉ có chưa đến 100 bài được phép phổ biến trong nước.

© 2013 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.