Hôm nay,  

Giã Từ Toàn Cầu Hoá

04/01/201300:00:00(Xem: 7699)
Việt Nam nên sớm nghĩ đến nâng cao khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa...

Thế giới vừa trải qua một chu kỳ năm năm đầy biến động, lồng trong trận Tổng suy trầm kinh tế 2008-2009 và ba năm đình trệ. Biến cố kéo dài này tất nhiên đã chi phối những tính toán kinh tế của mọi quốc gia và của mọi người trong từng quốc gia. Hậu quả sẽ ra sao trong mấy năm tới? Vào dịp đầu năm, Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về biến chuyển ấy qua phần trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Theo thông lệ, khi mở đầu năm mới, diễn đàn của chúng ta thường nhắc đến yếu tố lạc quan và tích cực cho một vận hội mới. Nhưng những gì xảy ra cho kinh tế thế giới từ mấy năm qua khiến người ta khó thấy lạc quan mà cần nhìn vào những rủi ro có thể xảy ra trong thời gian tới. Vì vậy, chương trình kinh tế đầu tiên của năm 2013 cố phác họa một số viễn ảnh cho thời kỳ trước mặt để còn tự chuẩn bị. Ông nghĩ sao về đề nghị này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta đều ý thức được những giới hạn của con người khi dự báo tương lai, nhất là tương lai kinh tế, vốn tổng hợp sự tính toán của cả triệu cả tỷ tác nhân ở nhiều nơi. Nhưng xuyên qua những chuyển động tưởng như hỗn loạn phi lý người ta vẫn có thể nhìn ra một số yếu tố hợp lý. Sau những năm đầy biến động vừa qua, ta thấy rằng trật tự cũ mà nhiều người tin là vĩnh viễn trường cửu lại bị đào thải và thế giới có thể bước qua một trật tự khác. Vì vậy, mình thử nhìn vào các chỉ dấu tiên báo viễn ảnh mới để còn phần nào tự chuận bị lấy thân.

Vũ Hoàng: Như vậy, xin ông khởi đầu bằng cách trình bày lại bối cảnh chung ngõ hầu mình có thể thấy ra một số điều hợp lý giữa những biến động chung.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Về bối cảnh chung, ta có thể thấy năm năm vừa qua là thời trả nợ sau chu kỳ 30 năm vay mượn quá sức của ba khối kinh tế công nghiệp hoá và giàu có nhất thế giới. Biến cố ấy khởi sự từ đầu năm 2008 và giải thích bao khó khăn dồn dập của ba anh nhà giàu mắc nợ là Nhật Bản, Hoa Kỳ và Âu Châu. Khi các nước giàu có nhất lại thu vén chi tiêu để còn trả nợ thì kinh tế toàn cầu bị suy trầm và rất chậm phục hồi. Đấy là một lẽ.

- Thứ hai, bên ngoài kinh tế thì còn chuyện sinh tử là an ninh. Sau 10 năm tập trung vào cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo, Hoa Kỳ ngập nợ phải tìm cách thoát khỏi những khó khăn đó. Nhưng khoảng trống do nước Mỹ để lại trên toàn cầu và các bài toán dồn dập khi phải trả nợ lại là sự cám dỗ cho chính sách bành trướng của Trung Quốc và gây phản ứng phòng thủ từ các quốc gia khác. Cùng những khó khăn kinh tế chung của toàn cầu, phản ứng này có chi phối chiến lược phát triển của các nước.

- Thứ ba, trong Liên hiệp của 27 nước Âu Châu và khối tiền tệ thống nhất của 17 nước cùng dùng chung đồng Euro, khó khăn tài chính dồn dập trong bốn năm liền cũng gây thất vọng cho nhiều nước và dẫn đến phản ứng quốc gia dân tộc, trong tinh thần xin tạm gọi là "đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ".

- Nói chung là tinh thần bảo thủ và co cụm của nhiều nước trên thế giới nhằm bảo vệ quyền lợi riêng. Nhìn trên toàn cảnh của ngần ấy chuyển động thì ta thấy ra một hậu quả bất ngờ cho cả thế giới, đó là sự thoái lui của trào lưu toàn cầu hóa. Mà điều đáng tiếc này thật ra cũng hợp lý.

Vũ Hoàng: Ông vừa nói đến một điều rất lạ, thậm chí là nghịch lý. Đó là "điều đáng tiếc mà thật ra cũng hợp lý". Xin đề nghị ông giải thích cho sự hợp lý này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng trước hết thì con người cũng là một sinh vật kinh tế nên phải thường xuyên ứng xử với hoàn cảnh hay chính sách để tìm lợi ích cao nhất. Nhưng người ta thay đổi với loại đổi thay lâu dài chứ không lụp chụp chạy theo biện pháp hay chính sách ngắn hạn. Vì vậy, sự thay đổi lớn lao này mới chậm xảy ra mà nếu chỉ để ý đến biến cố ngắn hạn thì ta cho là bị bất ngờ. Mà nếu chính sách lại đề ra cho một bài toán ngắn hạn thì có thể gây ra điều mà người ta gọi là "hậu quả bất lường" hay "liều thuốc đổ bệnh". Bây giờ ta mới suy ra khung cảnh toàn cầu trong trường kỳ.

- Về trường kỳ, hình thái sinh hoạt kinh tế của các nước có thay đổi và khu vực chế biến của các nước công nghiệp hoá đã thu hẹp và nhường chỗ cho khu vực dịch vụ. Tức là các nước giàu có đã đẩy đầu tư về chế biến cho các nước đang phát triển làm gia công để tìm lợi thế nhân công rẻ và điều ấy có góp một phần cho hiện tượng toàn cầu hóa và tự do chuyển dịch tư bản.

- Thứ hai, trong trường kỳ, ta còn để ý đến sự thay đổi về "thuật lý" hay "technology" là chữ tôi đề nghị về cách tổ chức khoa học kỹ thuật, tương tự như sinh lý hay vật lý trong các bộ môn khoa học kia. Thay đổi về thuật lý có thể là kết quả của bài toán an ninh hay quân sự mà cũng là hậu quả của cơ cấu phí tổn vì người ta cần tìm ra cách sản xuất nào rẻ hơn. Rốt cuộc thì tiến bộ thuật lý cũng đảo lộn luôn cơ cấu phí tổn ấy, thí dụ như về giá biểu của các loại nguyên nhiên vật liệu. Một thí dụ khác là sự cải tiến về thuật lý với máy điện toán và công nghệ tín học làm thay đổi quy trình sản xuất và nâng cao năng suất kinh tế nhưng cũng dẫn đến các bài toán xã hội là thất nghiệp, giáo dục và đào tạo cho các gia đình hay chính quyền.


Vũ Hoàng: Đó là những chuyển động sâu xa về xã hội với ảnh hưởng dội ngược vào kinh tế. Thưa ông, ngoài ra còn có những thay đổi gì khác nữa?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng còn có sự đổi thay chậm rãi mà mãnh liệt hơn, đó là cơ cấu dân số trong các nước.

- Nói chung, dân số địa cầu đã tăng vọt từ sau Thế chiến II nhưng nay đã đi hết chu kỳ và giảm dần. Càng tiến hóa thì càng giảm mạnh và bị nguy cơ gọi là lão hóa dân số. Sự thay đổi ấy cũng chi phối tính toán lời lãi của doanh nghiệp hay chiến lược kinh tế của quốc gia. Một cách cụ thể, lương bổng cho nhân công các nước đang phát triển không còn rẻ như trước khi các nước này trở thành "tân hưng", nghĩa là bắt đầu phát triển.

- Ngoại lệ ở đây là Trung Quốc, có dân số cao nhất địa cầu nhưng lãnh đạo tiêu cực và lạc hậu lại lầm tưởng rằng mỗi người sinh ra là một miệng ăn nên chủ động kiểm soát dân số qua kế hoạch mỗi hộ một con. Hậu quả là dân số cũng bắt đầu bị lão hóa, là người dân chưa giàu đã già, và lợi thế về nhân công nhiều và rẻ nay mất dần cho các nước khác vì doanh nghiệp của các nước tiên tiến đi tìm nơi rẻ hơn, có năng suất cao hơn. Mà cao nhất vẫn là trong các nước tiên tiến.

Vũ Hoàng: Sau khi lần lượt tổng kết lại các chuyển động lớn của các nước trên thế giới để dẫn về viễn ảnh trước mắt là sự thoái trào của hiện tượng toàn cầu hóa, ông có thể đơn cử một số dấu hiệu tiên báo cái trật tự đáng tiếc mà có lẽ hợp lý ấy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đầu tiên, chẳng còn ai nói về Vòng Đàm Phán Doha do Tổng thống George W. Bush đề nghị với Tổ chức Thương mại Thế giới WTO vào Tháng 10 năm 2001 để phát triển ngoại thương của các nước nghèo trong tinh thần ngoại thương góp phần gia tăng lợi ích cho mọi quốc gia. Vòng đàm phán ấy thực tế bị khai tử và cơ chế WTO chỉ còn là nơi giải quyết quá nhiều vụ tranh tụng về mậu dịch giữa các hội viên.

- Kế tiếp, chúng ta có Hiệp định Đối tác Xuyên Thái bình dương mà hai Tổng thống Mỹ đã liên tục đề cao từ 2008 đến 2010 và muốn sớm hoàn thành để phát triển ngoại thương và kinh tế giữa các nước trong vành cung Thái bình dương. Hiệp định ấy bị trở ngại và ngược lại, người ta lo sợ sự lớn mạnh của phản ứng bảo hộ mậu dịch với nhiều đòn trả đũa về ngoại thương để từng quốc gia bảo vệ quyền lợi riêng.

- Giữa các nước đã phát triển với nhau, khó khăn chồng chất bên trong khiến xứ nào cũng tìm cách in tiền, hạ lãi suất và tìm lợi thế của đồng bạc rẻ để xuất khẩu và thoát hiểm. Hiện tượng ấy gây thêm vấn đề ngoại thương và trước hết thu hẹp nguồn tư bản có thể đầu tư vào các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp giảm sút càng làm các nước nghèo gặp trở ngại khi thị trường xuất khẩu vào các nước giàu cũng co cụm dần. Nếu xứ nào cũng muốn bán hàng ra ngoài thì ai mua bây giờ? Tranh chấp mậu dịch vì vậy chỉ tăng chứ không giảm và toàn cầu hóa bị đẩy lui...

Vũ Hoàng: Thưa ông, riêng tại Hoa Kỳ, là quốc gia có thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới, người ta có thấy ra sự thoái trào ấy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Người ta thấy ra rõ ràng nhất là tại Hoa Kỳ, sau đó mới tới Âu Châu, Nhật Bản hay Trung Quốc, là những khối kinh tế dẫn đầu thế giới.

- Trên chính trường Mỹ, tự do mậu dịch hay toàn cầu hóa hết được coi là lý tưởng mà còn bị kết án là nguyên nhân gây ra thất nghiệp hay thiệt hại cho kinh tế và nhân công Mỹ. Dù sự thật chả đơn giản như vậy, lý luận ấy được rất nhiều người ủng hộ. Trong khi đó, về thực tế thì nhiều doanh nghiệp Mỹ hết thấy thị trường Trung Quốc là hấp dẫn và bắt đầu triệt thoái đầu tư để dồn qua xứ khác. Nhưng đáng chú ý nhất là để sản xuất lấy ở nhà, nhờ tiến bộ mới về thuật lý lẫn thay đổi về cơ cấu phí tổn. Nói chung, nước Mỹ hết tìm nơi làm gia công ở bên ngoài, hoặc chỉ tìm những công đoạn rẻ nhất ở xứ khác. Dù kinh tế Mỹ chỉ lệ thuộc bên ngoài có chừng 12% của tổng số tiêu thụ đấy vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất địa cầu. Nếu doanh nghiệp Mỹ tính lại cho thời gian năm bẩy năm tới thì kinh tế thế giới sẽ bị thiệt hại.

Vũ Hoàng: Câu kết cho đầu năm là gì thưa ông?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi mong rằng sự thay đổi này chỉ là trung hạn tức là cho năm bảy năm mà thôi vì lợi thế của toàn cầu hóa là điều có thật và khó phủ nhận. Nhưng mình vẫn phải tự chuẩn bị cho tình huống đó. Riêng về Việt Nam thì với thị trường gần 90 triệu dân, Việt Nam nên sớm nghĩ đến nâng cao khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa thay vì chỉ trông chờ vào xuất khẩu và đầu tư của công quyền. Đây cũng là cơ hội nhìn lại lợi thế tương đối của mình trong dài hạn, không thể là nhân công rẻ mà còn tùy vào năng suất, tức là giáo dục và đào tạo. Đấy cũng là lời chúc đầu năm của chúng ta cho thế hệ trẻ tại Việt Nam.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa và kính chúc ông một năm an hảo.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.