Hôm nay,  

Trùng Khánh và Chiết Giang - Tả và Hữu

5/17/201200:00:00(View: 14294)
Bảo rằng đảng Cộng sản và Chính quyền phục vụ nhân dân là nói ra điều sai quấy!

Sau khi được bổ về làm Bí thư Trùng Khánh hôm 15 Tháng Ba, ông Trương Đức Giang vừa yêu cầu thành phố này nên noi gương Chiết Giang mà phát triển một khu vực tư doanh vững mạnh hơn. Là Bí thư Chiết Giang rồi Quảng Đông trước khi về trung ương làm Phó Thủ tướng, ông Trương Đức Giang cũng là Ủy viên Bộ Chính trị từ 10 năm nay, tức là viên chức cao cấp trong hàng ngũ lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc. Lời phát biểu của ông khiến dư luận tự hỏi, là lãnh đạo xứ này đang suy tính gì về vai trò tư doanh. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu chuyện đó qua phần trao đổi với nhà tư vấn kinh tế của đài Á Châu Tự do, chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, trong chương trình phát thanh ngày 21 Tháng Ba trên diễn đàn này, khi phê phán "Mô hình Trùng Khánh" và nhân vật Bạc Hy Lai đầy tai tiếng sau đó, ông có nêu nhận xét rằng, chúng tôi xin lập lại, "Trung Quốc đang ở vào một khúc quanh vì phải tìm ra một mô hình phát triển mới sau khi mô hình cũ đã đi hết sự vận hành tương đối tốt đẹp của 30 năm qua." Vừa rồi, người thay ông Bạc Hy Lai làm Bí thư Trùng Khánh là Trương Đức Giang lại phát biểu rằng Trùng Khánh nên theo gương tỉnh Chiết Giang mà phát triển tư doanh vững mạnh hơn. Vì vậy, xin đề nghị là tuần này chúng ta sẽ tìm hiểu việc lãnh đạo Trung Quốc đang tìm ra một mô hình phát triển mới như ông đã nhận xét. Ông nghĩ sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi trộm nghĩ là lãnh đạo Trung Quốc không chỉ chuẩn bị Đại hội khóa 18 của đảng mà còn muốn tìm ra một hướng cải cách khác sau khi đi vào bế tắc, nếu không thì xứ này sẽ bị khủng hoảng. Trong quá khứ, họ đã thử nghiệm nhiều giải pháp và cũng gặp nhiều vấn đề nên cứ phải xoay trở và thay đổi, trong khi vẫn cố tạo ra một vẻ thống nhất ở bên ngoài. Vụ Trùng Khánh là một trường hợp, vụ Ôn Châu rồi Ô Khảm là trường hợp khác.

- Bây giờ đến lượt một nhân vật cao cấp trong giới lãnh đạo Bắc Kinh lại nói đến mô hình Chiết Giang như giải pháp có giá trị gương mẫu hơn cho Trùng Khánh. Do đó, quả là ta cần phân tích những do dự và chọn lựa kể trên vì thật ra Việt Nam cũng có bài toán tương tự ở một kích thước khác, và cũng đang nói đến cải tổ. Cùng với chuyện Trùng Khánh hay Chiết Giang, tôi xin được phép nói thêm về một khái niệm dễ gây hiểu lầm, đó là lối phân ranh tả/hữu của các giải pháp hay chủ trương đang xuất hiện tại Trung Quốc.

- Sau cùng, mình cũng nên nhắc đến lời phát biểu của Bí thư Quảng Đông là ông Uông Dương, nhân vật cao cấp như Trương Đức Giang và cũng có hy vọng vào Thường vụ Bộ Chính trị sau Đại hội 18. Uông Dương nổi tiếng về thành tích phát triển Quảng Đông, dám giải quyết vụ Ô Khảm theo sát ý dân mà còn gây chấn động hơn khi vừa tuyên bố trong một hội nghị của đảng bộ rằng "Đảng Cộng sản không đem lại hạnh phúc cho người dân" và "Bảo rằng đảng Cộng sản và Chính quyền phục vụ nhân dân là nói ra điều sai quấy!"

Vũ Hoàng: Ông vừa dẫn một lúc khá nhiều chuyện bất ngờ. Chúng ta sẽ mở ra từng vụ dù thời gian có hạn chế của chương trình, hầu thính giả tại Việt Nam có thể suy ra chuyện của mình. Trước hết là cái thế đối lập về lý luận giữa mô hình Trùng Khánh và Chiết Giang.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Như thông lệ, ta hãy nói về bối cảnh trước, sau đó mình mới phân tích vấn đề thì thính giả dễ hiểu ra sự thế vốn dĩ khá phức tạp của cả Trung Quốc và Việt Nam.

- Sau 30 năm hoang tưởng đẫm máu và nghèo khốn của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đã tiến hành "cải cách và khai phóng" từ đầu năm 1979 và cho phép tư doanh xuất hiện để góp phần phát triển quốc gia. Nhưng 10 năm sau thì vụ khủng hoảng Thiên an môn khiến đảng sợ mất quyền nên tập trung kiểm soát chính trị nhưng không tiêu diệt tư doanh. Mười năm sau đó là thời Giang Trạch Dân ráo riết phát triển các tỉnh thành duyên hải miền Đông với đầu máy là doanh nghiệp nhà nước và tay chân làm gia công mà khá phát đạt là hệ thống tư doanh cò con ở dưới.

- Kế tiếp là 10 năm của Hồ Cẩm Đào với nỗ lực điều chỉnh sự chênh lệch giữa khu vực duyên hải miền Đông với các tỉnh nghèo bên trong, cũng do nhiều dự án quy mô về hạ tầng được các tập đoàn nhà nước thực hiện. Vì vậy, trong 30 năm qua, vai trò tư doanh thường được đảng cân đo với vị trí chủ đạo của quốc doanh. Quốc doanh gây lãng phí, bội chi ngân sách và tham ô, nhưng nếu tư doanh phát triển quá mạnh thì thành phần tư nhân có thể đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn, từ kinh doanh đến chính trị.

- Đấy là hai hướng mà người ta gọi lầm theo Bắc Kinh là "tả" và "hữu". Tả là giữ thế thống trị cho quốc doanh với lý tưởng công bằng mà hậu quả là cào bằng và hữu là thiên về tư doanh với rủi ro chính trị cho chế độ. Thời Mao, tư tưởng cải cách của họ Đặng bị đả kích là "hữu khuynh" và giờ đây, người dựa hơi họ Mao theo kiểu Bạc Hy Lai thì được gọi là "tân tả". Thật ra, tôi thiển nghĩ rằng theo Mao mới là thủ cựu và muốn cho tư doanh và người dân có nhiều quyền hạn hơn thì mới là tiến bộ. Và một nhật báo có uy tín như tờ Figaro của Pháp mà đánh giá Trương Đức Giang là thủ cựu thì hơi sai! Bây giờ, ta mới trở lại chuyện Trùng Khánh và Chiết Giang.

Vũ Hoàng: Dường như dưới quyền lãnh đạo của Bạc Hy Lai, hệ thống nhà nước giữ vị trí trọng yếu nhờ doanh nghiệp nhà nước và nhờ chính quyền địa phương phân bố ngân sách lẫn phúc lợi xã hội, với kết quả là có tăng trưởng cao và tương đối công bằng, nhưng với hậu quả là bội chi ngân sách và mắc nợ như ông đã cảnh báo. Bây giờ, một cựu Bí thư của hai tỉnh duyên hải Chiết Giang và Quảng Đông, là Trương Đức Giang, lại đề cao giải pháp phát triển tư doanh đã được thử nghiệm thành công ở các nơi ấy. Lãnh đạo Bắc Kinh nhìn chuyện ấy như thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Theo phong cách kín đáo và cẩn trọng của lãnh đạo, nhất là sau kinh nghiệm chơi trội và làm ẩu của Bạc Hy Lai, Trương Đức Giang không đề cao Chiết Giang để tự quảng cáo. Tôi nghĩ lời phát biểu ấy phản ảnh một sự chọn lựa từ Bộ Chính trị nay đang được công khai hóa. Tôi xin được giải thích:

- Trùng Khánh là khu vực đặc biệt có tới 30 triệu người, cả thôn dân lẫn thị dân. Từ khi tách khỏi tỉnh Tứ Xuyên bị khóa bên trong để là thành phố do trung ương quản lý, Trùng Khánh được chọn làm thí điểm và bắt đầu hiện đại hóa qua hai Bí thư là Trương Đức Giang rồi Uông Dương. Nhưng rút kinh nghiệm quá khứ và tệ nạn lãnh chúa địa phương, Bộ Chính trị không muốn bất cứ ai xây dựng thế lực cá nhân nếu ở quá lâu trong một khu vực. Bạc Hy Lai được đưa khỏi Liêu Ninh về làm Bộ trưởng Thương mại tại Bắc Kinh rồi đến Trùng Khánh cũng vì lý do sâu xa đó.


- Thế rồi nhờ ở xa mặt trời Bắc Kinh, ông ta bắt đầu múa với thành tích Trùng Khánh và mở ra mạng lưới cấu kết cho cá nhân, là điều tối kỵ nhưng chưa nguy hiểm cho đảng. Khi phát động chiến dịch "thanh hồng - đả hắc" và hát lại khẩu hiệu của Mao, ông ta còn được phái "Tân Tả" đề cao và bảo vệ, thậm chí bênh vực khi đã mất chức Bí thư Trùng Khánh, Bạc Hy Lai trở thành vấn đề. Chẳng những bản thân và gia đình ông ta bị điều tra về tội hình sự mà cả mô hình Trùng Khánh cũng bị Bộ Chính trị phê phán để qua đó dẹp bớt ảnh hưởng của đám thủ cựu tự xưng là tân tả, vốn dĩ khá đông trong một số trí thức và cũng khá hấp dẫn cho nông dân với lý tưởng công bằng xã hội. Chiết Giang được công khai đề cao là trong ý nghĩa đó.

Vũ Hoàng: Nhưng phải chăng là chìm sâu bên dưới vẫn còn lý luận về vai trò của tư doanh?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa hoàn toàn đúng như vậy. Trên đại thể, tư doanh Trung Quốc có phát triển đôi chút mà vẫn chỉ là doanh nghiệp loại vừa và nhỏ chứ chưa thể nào có thế lực như các tập đoàn quốc doanh, trong khi tư doanh thực tế lại đảm bảo tới 80% công việc làm cho cả nước. Trong mấy năm qua, hệ thống tư doanh này bị khủng hoảng nặng, điển hình là chuyện thành phố Ôn Châu trong tỉnh Chiết Giang.

- Đấy là một địa phương tiên phong về phát triển tư doanh đến độ được gọi là cái nôi của tư bản chủ nghĩa Trung Quốc. Vậy mà sau nạn tổng suy trầm 2008, khi thị trường xuất khẩu co cụm, các hợp đồng gia công giảm sút và Bắc Kinh trút tiền vào doanh nghiệp nhà nước để kích thích kinh tế thì tư doanh Ôn Châu chết kẹt, phá sản hàng loạt nên đã gây vấn đề. Từ bài học Ôn Châu, lãnh đạo xứ này biết rằng không thể bóp nghẹt tư doanh vì sẽ gặp nạn thất nghiệp và động loạn. Nhưng vấn đề thật ra còn sâu xa hơn một chu kỳ suy trầm kinh tế....

Vũ Hoàng: Ông nói sâu xa hơn là vì cuộc tranh cãi về lẽ tốt/xấu của tư doanh có những gốc rễ lâu đời hơn thế chăng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là như chuyện tranh luận về tả/hữu, vấn đề tư doanh đã có từ khi xuất hiện đảng Cộng sản Trung Hoa, 90 năm về trước. Hoặc từ khi có đảng cộng sản trên trái đất này! Thu gọn vào Trung Quốc cho khỏi lạc đề, nhưng cũng để nghĩ về chuyện Việt Nam, tôi xin được tóm lược như sau.

- Sau khi nắm quyền từ Hội nghị kỳ 3 của Ban Chấp hành Khoá 11 vào Tháng 12 năm 1978, Đặng Tiểu Bình chủ trương cởi trói cho tư doanh quyền hiện hữu. Nhờ đó, các gia đình tư nhân mới lập ra loại tiểu doanh nghiệp hương trấn và thu hút nguồn nhân lực dư thừa từ nông thôn để tiến theo đà công nghiệp hoá và đô thị hóa. Sau khi bị vụ khủng hoảng Thiên an môn năm 1989 đến độ tàn sát cả ngàn dân, họ Đặng có chuyến "Nam tuần" là thăm dò các tỉnh miền Nam vào năm 1992, và thấy ra sinh lực của tư doanh nên dù tăng cường kiểm soát chính trị, ông ta vẫn gạt qua vụ tranh luận về tư tưởng và cho tư doanh phát triển.

Vũ Hoàng: Nếu như vậy, tranh luận về tư doanh đã có ít ra từ 20 năm trước?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa khi ấy, xứ này cần một hạ tầng yểm trợ nỗ lực chế biến để xuất khẩu và tạo ra việc làm, trong khi các đảng bộ địa phương cũng thấy tư doanh là một nguồn thuế cho mình. Trong 20 năm sau đó, dù quốc doanh được chấn chính và nâng đỡ để chủ động thi hành chính sách nhà nước, tư doanh vẫn có vai trò của mình.

- Nhưng, mỗi khi phát triển được từ trình độ tiểu doanh lên kích thước cao hơn là doanh nghiệp tư nhân lại mở rộng ảnh hưởng, nên từ năm 2004, lãnh đạo Bắc Kinh lại thụt lùi và hết dám yểm trợ tư doanh. Điều mà họ sợ nhất là tư nhân biến báo năng động có thể cấu kết với đảng viên để dẫn đến sự hình thành của một lớp trung lưu mới và sẽ đe doạ quyền uy và chính sách của đảng.

- Vì thế, ta thấy ra một mâu thuẫn của đảng là rất cần mà cũng sợ tư doanh. Lý do then chốt nằm trong chủ trương xây dựng một hệ thống tư bản nhà nước mà thực chất là "tư bản quả đầu", tư bản của một thiểu số là các đại gia hay thân tộc đảng viên. Rồi đảng lâm bế tắc với chế độ kinh tế chính trị đó vì tính chất bất công và bất lực của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Bây giờ ta mới qua chuyện Quảng Đông, Ô Khảm và nhân vật Uông Dương.

Vũ Hoàng: Nhân vật này hiện ở trong Bộ Chính trị và có hy vọng tiến vào Thường vụ Bộ Chính trị sau Đại hội tới. Ông nhắc tới ông ta vì những lý do gì, vì chuyện Ô Khảm hay tư doanh?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là vì tất cả ngần ấy lý do tròng chéo phức tạp.

- Sinh năm 1955 tức là còn trẻ hơn Trương Đức Giang gần chục tuổi, nhân vật này đi từ dưới lên và là đảng viên xuất sắc từ Đoàn Thanh niên trước khi về trung ương và lần lượt đi các tỉnh. Làm Bí thư Quảng Đông, ông ta chủ trương là phải cho địa phương và tư doanh nhiều quyền tự do quyết định hơn, từ kinh doanh đến luật lệ áp dụng. Nhưng dù yểm trợ tư doanh, ông không theo quan điểm của trung ương mà lại cho rằng nếu doanh nghiệp kém năng suất và bị lỗ thì cũng chẳng nên cứu, một lý luận rất tư bản. Ngược với chính sách Bạc Hy Lai tại Trùng Khánh là lấy công quỹ lo cho phúc lợi của người dân theo kiểu bao cấp, Uông Dương phát biểu là nên nghĩ tới sản xuất ra cái bánh to hơn thay vì chỉ tính chuyện chia phần bánh hầu ai ai cũng có một mẩu! Năm ngoái, khi dân làng Ô Khảm biểu tình tấn công cán bộ địa phương vì bị cướp đất, ông ta cách chức cán bộ và đưa dân biểu tình lên lãnh đạo Ô Khảm. Tất nhiên là ngần ấy chuyện đều được Bắc Kinh lặng thinh theo dõi xem kết quả ra sao, nhìn từ quan điểm của đảng.

Vũ Hoàng: Thế còn lời phát biểu gần đây của ông Uông Dương, rằng đảng Cộng sản không đem lại hạnh phúc cho người dân? Theo ông nhận xét thì chuyện ấy có ý nghĩa thế nào?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nhìn từ bên ngoài thì đấy là lý luận phản động từ một địa phương có ý đồ nổi loạn! Nhưng y như lời phát biểu của Trương Đức Giang về tư doanh, quan điểm ấy cũng có thể là lời cảnh báo của một số đảng viên cấp lãnh đạo. Dù báo chí quốc doanh không loan tải loại tin này cho quần chúng nhưng rõ ràng là thượng tầng đảng Cộng sản đang có tranh luận khá cơ bản về tương lai vì nhiều mâu thuẫn khó dung hòa giữa tư tưởng và thực tế. Ta nên theo dõi các cuộc tranh luận trước và sau Đại hội 18 tới đây và rút tỉa kinh nghiệm cho Việt Nam.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.


Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng RFA

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.