Hôm nay,  

TQ bị nhập siêu: Nguyên nhân và Hậu quả

3/11/201100:00:00(View: 12585)
TQ bị nhập siêu: Nguyên nhân và Hậu quả


Nguyễn Xuân Nghĩa

Nhập siêu là cái ngọn. Cái gốc mới kinh hoàng...

Chỉ năm ngày sau khi Quốc hội Trung Quốc thông báo sự chuyển hướng trong Kế hoạch Ngũ niên thứ 12 (KH12), thì Tổng cục Quan thuế cho biết là trong Tháng Hai vừa qua, Trung Quốc đã bị nhập siêu 7,3 tỷ Mỹ kim.
Con số hy hữu đó của một xứ xuất cảng mạnh nhất và thường xuyên đạt xuất siêu vì xuất hơn nhập cảng là kết số của hai sự kiện: xuất cảng chỉ tăng 2,4% so với cùng kỳ năm ngoái mà nhập cảng lại tăng 19,4%. Đằng sau hai sự kiện này, lạc quan thì ta có... Tết Nguyên Đán là khi dân chúng tiêu xài nhiều hơn và các doanh nghiệp đều xả hơi, giảm sản xuất.
Nhưng ngoài dữ kiện thuộc về thói quen theo mùa như vậy, ta còn thấy ra nhiều yếu tố khác.
Sau nhiều năm đắn đo co duỗi, Trung Quốc đang chuyển hướng chiến lược kinh tế để lệ thuộc ít hơn vào xuất cảng và chú trọng nhiều hơn đến sức tiêu thụ của thị trường nội địa, và để tái phân lợi tức hầu điều chỉnh thất quân bình kinh tế và nhất là bất công xã hội. Nhưng không phải quyết định về KH12 do Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ban hành hồi tháng 10 năm ngoái và Quốc hội thông qua vào tuần trước mới dẫn tới chuyện nhập siêu 7,3 tỷ trong tháng Hai.
Chiều hướng xuất cảng sút giảm và nhập cảng gia tăng đã có từ nhiều năm rồi: xuất siêu của Trung Quốc giảm liên tục, 298 tỷ vào năm 2008, 196 tỷ năm 2009, và 184 tỷ năm 2010. Gần đây, giá cả các nhập lượng như nguyên nhiên vật liệu, nông khoảng sản, quặng sắt, dầu thô, v.v... (gọi chung là "thương phẩm") lại tăng mạnh, khiến số nhập cảng mới tăng vọt. Đây là ta chưa nói đến sức ép của các quốc gia khác, nhằm đẩy mạnh xuất cảng vào Trung Quốc, và giảm bớt tác dụng của chính sách hối đoái của Bắc Kinh với đồng Nguyên định giá quá thấp...
Ngay từ tuần trước, ngày mùng bảy, Bộ trưởng Thương mại Bắc Kinh là Trần Đức Minh đã rào trước đón sau, rằng Trung Quốc không loại bỏ sự việc là sẽ bị nhập siêu trong một vài tháng....
Khi tìm hiểu cho kỹ thì chìm sâu bên dưới sự chuyển động âm ỉ và chậm rãi này còn có hậu quả đáng ngại là cả triệu doanh nghiệp Trung Quốc sẽ thiếu thanh khoản, hiện kim, bạc mặt. Vốn dĩ được quản lý kém hiệu năng, khi lại thiếu tiền kinh doanh, từ nay các doanh nghiệp này sẽ khốn đốn. Và sản lượng sẽ sụt mạnh hơn những dự đoán hay chỉ tiêu ban đầu - là đạt mức tăng trưởng trung bình là 7% trong năm năm tới. Hậu quả xã hội là thất nghiệp có thể tăng.
Chuyện ấy khiến người ta phải đào sâu hơn vào chiến lược phát triển mà thế giới cứ gọi là rồng cọp của Trung Quốc.
Từ cả chục năm nay, lãnh đạo Bắc Kinh đã thắt lưng buộc bụng người dân để đầu tư dữ dội qua hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Lượng đầu tư khổng lồ này - riêng về tư bản cố định thì tăng hàng năm từ 20 đến 40% trong cả chục năm như vậy chỉ là thuốc bổ cho kẻ đua xe đạp trên đường trường. Chi tiết kỹ thuật ấy không đáng chú ý nếu người ta không thấy là trong cùng thời kỳ, tốc độ đô thị hóa tại Trung Quốc chỉ tăng tối đqa chừng 1,5% một năm. Thế thì đầu tư vào đâu, để làm gì"
Thực tế thì trong nhiều năm liền, mỗi tháng Trung Quốc đầu tư và xây dựng ra hạ tầng đường xá hay địa ốc cho một thị trấn hai vạn dân. Kết quả được bút ghi vào đà tăng trưởng kinh tế là 9-10%, nhưng hậu quả là những thị xã chết, không có người ở: tốc độ đô thị hóa nói trên có cho thấy điều ấy.
Nhưng dù sao mặc lòng, doanh nghiệp nhà nước, từ trung ương tới địa phương vẫn hỳ hục đầu tư để tạo ra việc làm và kể ra thành tích huy hoàng rồi đưa lên trên cho thượng cấp đẹp lòng. Và thế giới thì trầm trồ khen ngợi sức bật của Trung Quốc. Khiến xứ này cứ nhập cảng nguyên nhiên vật liệu cho nhiều, xây nhà cho cao, cán thép cho mạnh... và cất vào tồn kho!

Bây giờ, trên cái núi tồn kho vô dụng và thống kê hào nhoáng đó, lãnh đạo bắt đầu choáng váng. Nếu các doanh nghiệp phải hãm đà tăng trưởng ảo như vậy thì sẽ mất vốn và lãnh thất nghiệp thật!
Hậu quả chính trị là gì thì chúng ta đều rõ, và lãnh đạo Bắc Kinh đều sợ!
Tức là Trung Quốc đang ở giữa một khúc quanh đầy rủi ro. Đúng lúc đó thì lại có trận bão giá về thương phẩm trên thế giới. Doanh nghiệp và lãnh đạo Bắc Kinh đều có thấy trước sự kiện này.
Các doanh nghiệp bèn đón trước thời cơ, bằng cách mua ngay nguyên nhiên vật liệu về cất trong kho trước khi mọi thứ đều sẽ lên giá. Việc lập kho dự trữ để phòng ngừa lập tức đẩy mạnh nhập cảng - vì xứ này vẫn đói ăn và khát dầu - và khiến hiện tượng nhập siêu sẽ trở thành đáng ngại hơn dự báo ban đầu.
Bây giờ, nhằm đối phó với cơn bão giá, lãnh đạo Bắc Kinh phải chú ý trước tiên đến hậu quả xã hội: lại tăng chi để trợ giá, kiểm soát giá cả và cấm doanh nghiệp tăng giá quá đáng. Từ đấy lại lâm vào một vòng luẩn quẩn khác!
Đây là hiện tượng bị điện giựt trong khúc quanh!
Nhưng chưa hết. Khi công ty lượng giá tín dụng Fitch vừa thông báo điều họ đã nói từ trước, rằng hệ thống ngân hàng Trung Quốc có thể bị khủng hoảng trong những năm tới, Bắc Kinh càng thấy bức xúc. Một giám đốc ngân hàng của Trung Quốc phải lập tức lên tiếng trấn an.
Fitch tiên đoán rằng với xác suất là 60%, Trung Quốc có thể bị khủng hoảng ngân hàng vào năm 2013, vì một núi nợ xấu sẽ sụp đổ sau khi đã cấp phát tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước theo diện chính sách. Doanh nghiệp lại dùng tiền đó đi vào thị trường đầu cơ để thổi lên bong bóng, Khi bóng bể - sắp rồi - thì mọi thứ đều sụp theo lối dây chuyền....
Sau chuyện doanh nghiệp nhà nước vừa nói tới ở trên là câu hỏi "tiền đâu".
Đầu tiên, các ngân hàng đã bơm tín dụng - với lãi suất trợ cấp - chủ yếu là ba phần tư tổng số cho doanh nghiệp nhà nước gia tăng đầu tư theo lối rồng cọp giấy. Lượng tín dụng từ 750 tỷ Mỹ kim năm 2008 tăng gấp đôi trong năm 2009. Lý do là để kéo kinh tế ra khỏi nguy cơ suy trầm của toàn cầu.
Kết quả "dương" là Trung Quốc đã đầu tư đến 55% Tổng sản lượng GDP để đạt thành tích tăng trưởng 9% - một sự phao phí phương tiện tốn kém hơn gấp đôi các nước Đông Á trong giai đoạn khởi phát mấy chục năm trước.
Hậu quả "âm" là các ngân hàng ngồi dưới một núi nợ khó đòi, sẽ thành nợ thối và ụp lên đầu mọi người, nhất là các trương chủ loại thường dân đã chắt bóp tiền tiết kiệm để gửi ngân hàng.
Trong tổng số 120 ngàn doanh nghiệp nhà nước địa phương - chưa kể các công ty vệ tinh làm gia công hay bám sống vào các doanh nghiệp này - một số không ít sẽ không thể tiếp tục ngồi mát ăn bát vàng vì quyết định chuyển hướng sẽ chấm dứt tình trạng có doanh lợi gia tăng mỗi năm từ 15 đến 20%. Vì phản ứng sinh tồn, từ nay các doanh nghiệp sẽ xiết xuống dưới, khiến cả triệu công ty vệ tinh cò con sẽ chết ngộp và phá sản.
Thành thử, con số trừu tượng là Trung Quốc bị nhập siêu 7,3% chỉ là sự kiện nổi trên bề mặt. Bên dưới lại có những chuyển động ngầm còn đáng ngại hơn.
Để kết luận, số nhập siêu của Trung Quốc không chỉ liên hệ đến chuyện vui chơi ngày Tết mà có nguyên nhân sâu xa. Và có hậu quả đáng ngại hơn về kinh tế, xã hội và nhất là chính trị. Đây là chuyện rất nên theo dõi... vì cũng có ảnh hưởng đến Việt Nam đang bị vùi dập trong cơn bão giá và lại vừa được dự báo là thuộc thành phần quốc gia sẽ vỡ nợ nay mai. Tùy cách tính thì đứng hạng thứ tám đến thứ 10, ngay sau Ai Cập!
Vì những biến chuyển dồn dập, quý độc giả có thể theo dõi những phân tích cập nhật của chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa trên trang mạng Dainamax Magazine: www.dainamax.org

Reader's Comment
3/11/201114:11:41
Guest
Tôi tiên đoán là vào tháng 4 tới, sẽ có 1 biến chuyển rất quan trọng, và có thể thị trường sẽ xụp đổ trong 1 vài tháng tới!!!
Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.