Hôm nay,  

Tăng Cường Năng Lực Cạnh Tranh

02/12/201000:00:00(Xem: 10619)

Tăng Cường Năng Lực Cạnh Tranh

Việt Long & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA

...VN rất khó cạnh tranh mà chỉ giúp đảng viên cán bộ rất dễ kiếm tiền bỏ túi...

Ngày 30 tháng 11, một bản báo cáo về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đã được công bố. Người chủ trì việc nghiên cứu là Giáo sư Michael Porter của Đại học Harvard tại Hoa Kỳ. Là nhân vật nổi tiếng thế giới về chiến lược cạnh tranh, ông Porter đã tới Hà Nội dự cuộc hội thảo để thuyết trình về những ưu khuyết điểm của Việt Nam trong lĩnh vực cạnh tranh.
Nhân dịp này, Diễn đàn Kinh tế trao đổi với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa về những chướng ngại và cạm bẫy trong cạnh tranh. Xin quý vị theo dõi chương trình do Việt Long thực hiện sau đây.
Những hạn chế
Việt Long: Thưa ông, sau khi đổi mới kinh tế rồi hội nhập vào luồng trao đổi toàn cầu, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ngoạn mục so với trước đây. Nhưng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn bị nhiều hạn chế, như Giáo sư Michael Porter đã trình bày trong cuộc hội thảo quốc tế tại Hà Nội hôm 29 tháng 11 vừa qua, trước khi công bố bản báo cáo về khả năng cạnh tranh của Việt Nam vào ngày 30. Kỳ này, xin đề nghị ông phân tích cho những hạn chế đó và nhắc tới những việc phải làm để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa rằng từ nhiều năm nay, Việt Nam đã được quốc tế viện trợ cho rất nhiều dự án nghiên cứu về khả năng cạnh tranh của mình. Lần này là lần đầu mà một phúc trình nghiên cứu được công bố ra ngoài. Dự án này do Viện Cạnh tranh Á châu tại Singapore yểm trợ thực hiện cùng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương của Việt Nam, dưới sự chỉ đạo của Giáo sư Michael Porter của trường Harvard. Sinh năm 1947, Giáo sư Porter là nhân vật có uy tín và là nhà tư vấn về cạnh tranh cho nhiều tập đoàn kinh doanh và quốc gia trên thế giới cho nên báo cáo của ông là một phúc trình mà các doanh nghiệp nên tham khảo. Tuy nhiên, những khuyến cáo được đưa ra cũng nhắm vào chiến lược phát triển và các vấn đề kinh tế vĩ mô của Việt Nam nên cần được giới chức nhà nước chú ý khi chuẩn bị chiến lược kinh tế trong dài hạn.'
Việt Long: Nếu vậy, chúng ta sẽ bắt đầu từ khuôn khổ chung là chuyện chiến lược và vĩ mô trước khi tìm hiểu về các quyết định vi mô của doanh nghiệp.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Các nhà nghiên cứu phúc trình cạnh tranh này tất nhiên có thấy ra vấn đề mà giới kinh tế quốc tế đã đề cập và khuyến cáo từ lâu. Gần đây nhất là ý kiến của đại diện của Ngân hàng Thế giới trong cuộc hội thảo hồi tháng Tám của Ủy ban Khoa học Xã hội.
- Ta thấy rằng Việt Nam theo mô hình phát triển dựa trên lợi thế nhất thời và không thể kéo dài mãi mãi về vị trí địa dư, về lượng tài nguyên thiên nhiên và dân số trẻ, mà lại gây vấn đề lâu dài như bất công xã hội và hủy hoại môi sinh trong khi chẳng cải tiến về giáo dục và đào tạo để nâng cao năng suất lao động. Vì hoàn cảnh đó cho nên Việt Nam vẫn tìm sức cạnh tranh ở mức lương rẻ hơn các thị trường khác và không leo lên trình độ sản xuất cao hơn, có giá trị gia tăng lớn hơn. Đã đến lúc Việt Nam phải đi tìm một chiến lược phát triển khác, và càng sớm càng hay.
- Thứ hai, thuộc về cơ chế và khả năng quản lý kinh tế cấp quốc gia, 25 năm sau khi tiến hành đổi mới, Việt Nam chưa cải tiến hệ thống chính trị cho thông thoáng, không xây dựng hạ tầng cơ sở luật pháp cho minh bạch và chưa thiết lập bộ máy quản lý vĩ mô cho ổn định. Ngay trước mắt thì các vấn đề kinh tế vĩ mô như lạm phát hay bất ổn ngoại hối cũng thu hẹp khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Vấn đề doanh nghiệp nhà nước
Việt Long: Bản báo cáo cũng nói tới một vấn đề đã được quốc tế khuyến cáo nhiều lần là vị trí quá lớn của doanh nghiệp nhà nước. Ông nghĩ sao về vấn đề này"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Đây là loại vấn đề thứ ba trong cơ chế và tư duy của lãnh đạo. Do chọn lựa chính trị của lãnh đạo - nói vắn tắt là "phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" - Việt Nam duy trì sự bất công lớn và một gánh nặng tai hại là vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, lại còn nâng các doanh nghiệp này lên cấp tập đoàn như một đầu máy kinh tế cho quốc dân. Các cơ sở ấy vốn có năng suất kém và gây hoang phí vì thu hút tài nguyên quốc gia vào những việc không thiết thực cho lợi ích quốc dân.
- Một ngẫu nhiên đáng chú ý là trong khi dư luận còn lên cơn sốt về tập đoàn đóng tàu Vinashin bị mắc nợ và có thể phá sản thì hôm 26 vừa qua, PetroVietnam Finance Co., một phân vụ của tập đoàn Vietnam Oil and Gas cho biết rằng mức doanh lợi trong Quý ba đã sụt mất 90% vì... chơi stock mà bị lỗ khi thị trường chứng khoán mất giá nặng. Loại tập đoàn này có cái thế độc quyền thực tế mà vì sao còn nhảy vào thị trường chứng khoán để bị lỗ mất 225 tỷ đồng"
- Phúc trình về cạnh tranh có khuyến cáo là phải để khu vực tư doanh giữ vai trò chủ đạo, phải coi cạnh tranh là ưu tiên chiến lược và quan niệm lại vai trò của nhà nước là tạo dựng lợi thế cho kinh tế chứ không phải là kiểm soát kinh tế. Việc giải phóng và coi trọng sức mạnh của tư doanh được các định chế quốc tế nhắc nhở từ lâu thay vì nhà nước cứ nhảy vào cạnh tranh với tư nhân.
Việt Long: Ở bên cạnh Trung Quốc như nền kinh tế rồng cọp, lãnh đạo Việt Nam có thể đã ngó lên Bắc Kinh để tìm bí quyết thành công. Hình như là bản báo cáo về cạnh tranh cũng khuyến cáo là Việt Nam sẽ không thành công nếu lại bắt chước Trung Quốc, có phải vậy không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Như trường hợp phổ biến của kẻ đi sau là học theo người đi trước, thấy ai làm gì thành công thì bắt chước, Việt Nam cũng vậy. Ở cấp quốc gia, lãnh đạo xứ này cho rằng mô hình Trung Quốc có giá trị vì: thứ nhất bảo vệ thế lực chính trị cho đảng độc quyền; thứ hai, lấy xuất khẩu làm đầu máy tăng trưởng; và thứ ba lấy nhân công rẻ làm lợi thế xuất khẩu.


- Giáo sư Porter thì khuyên rằng Việt Nam nên nghĩ khác hơn là chỉ nhìn vào lương bổng rẻ và một thị trường đông dân. Và không nên bắt chước Trung Quốc với chiến lược nhân công rẻ. Thực tế thì tôi e là chiến lược Trung Quốc đã đi hết chu kỳ vận hành ban đầu của nó, và kinh tế xứ này đang gặp sức ép rất mạnh về lương bổng công nhân, lại còn bị nguy cơ "bộc xúc" - là "implosion", nổ vào - với nạn bong bóng gia cư địa ốc nay mai có thể bể kéo theo sự phá sản dây chuyền. 
Năng lực cạnh tranh
Việt Long: Bây giờ ta mới bước qua phần vi mô, về quản lý doanh nghiệp như thế nào để gia tăng năng lực cạnh tranh.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa ông, trước khi tiến qua mục đó, tôi xin được nhắc tới một ý kiến có giá trị chiến lược từ Giáo sư Michael Porter nếu ta nhìn ra khỏi phạm vi của Việt Nam.
- Đó là khối ASEAN của 10 quốc gia Đông Nam Á, một khu vực có hơn 600 triệu dân, với nhiều nền kinh tế đã đạt trình độ phát triển cao, có lợi tức trên mức trung bình và thoát khỏi lề lối cạnh tranh chỉ nhờ khai thác lợi thế nhân công rẻ. Việt Nam nên học kinh nghiệm của các quốc gia này, vốn dĩ đã khác và tiến bộ hơn kinh nghiệm Trung Quốc. Chưa nói là họ còn có nền chính trị dân chủ và môi trường kinh doanh minh bạch hơn. Nếu muốn tìm một thị trường lớn và có sức cạnh tranh bén nhạy để tự mài dũa khả năng thì Việt Nam nên hội nhập vào kinh tế ASEAN.
- Nhìn từ nhiều giác độ khác nhau thì chiến lược này rất có giá trị. Thứ nhất là nhờ vị trí địa dư, thứ hai là nhờ quan hệ gắn bó về cả văn hoá, lịch sử và kinh tế của miền Nam Việt Nam với khu vực Đông Nam Á, thứ ba là về quyền lợi an ninh nữa. Hơn 10 năm trước, Việt Nam đã có những dự tính như vậy mà không hiểu sao lại càng ngày càng thiên về Trung Quốc về cả kinh tế lẫn ngoại giao chính trị nên đang bị mắc kẹt. Trở lại những khuyến cáo về cạnh tranh cho doanh nghiệp, có lẽ ta nên chú ý đến một số nhận xét cũng từ vĩ mô xuống vi mô của Giáo sư Porter...
Việt Long: Nghĩa là ông chưa ra khỏi khuôn khổ vĩ mô, là môi trường chung cho các doanh nghiệp"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng vậy nếu ta xét tới sự phát triển tản mát mà thiếu sức tập trung và hỗ tương của các doanh nghiệp. Vấn đề này cũng thuộc phạm vi chiến lược ở cấp quốc gia.
- Một cách cụ thể thì các mũi nhọn sản xuất của Việt Nam như giày dép, hàng dệt may hay thủy sản không có sức cộng hưởng, không hỗ trợ lẫn nhau mà nhà nước có muốn yểm trợ thì cũng không có đòn bẩy. Trong buổi thuyết trình, Giáo sư Porter nhắc đến một giải pháp đã được nhiều xứ khác áp dụng, là phát triển các cụm ngành sản xuất theo tinh thần chiến lược hay sách lược. Nghĩa là nhìn xa vào tương lai để chọn những khu vực hay ngành sản xuất có giá trị cao và lập ra những trung tâm phát triển lợi thế tương đối của các ngành đó. Vai trò yểm trợ của nhà nước cần được thấy ở đó.
- Bước qua khuôn khổ vi mô, thuộc sách lược quản trị của các doanh nghiệp, cuộc hội thảo hôm 29 có nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa việc xác định mục tiêu với một khái niệm có lẽ vẫn còn mới cho các doanh nghiệp là trù hoạch chiến lược. Các doanh nghiệp quốc tế đều nắm vững sự khác biệt đó là đi tìm chiến lược cho trường kỳ, rồi căn cứ trên chiến lược mới nhắm vào những mục tiêu ngắn hạn hơn, trong vòng năm bảy năm trước mắt. Tại Việt Nam mà nhìn ra tương lai xa hơn năm năm là chuyện khó, và ít ai nghĩ tới, cho nên họ mới thường xuyên bị động.
- Chuyện thứ hai mà các doanh nghiệp cần chú ý là tránh bắt chước chiến lược của công ty khác. Cứ thấy họ làm cái gì đó có lợi là nhảy vào làm y hệt thì cũng như muốn giành lấy một phần bánh lớn hơn của một cái bánh không thay đổi kích thước. Nghĩa là phải sáng tạo trong chiến lược và đừng rơi vào cái bẫy là chết chùm với nhau vì mức lời sút giảm.
- Chuyện thứ ba, cũng có tính chất chiến lược, là doanh nghiệp phải mạch lạc với mục tiêu kiếm lời hơn là chiếm thị phần, hoặc chỉ mong doanh số gia tăng mà bất kể tới doanh lợi. Tôi nghĩ rằng đây là bài học phổ biến cho nhiều doanh nghiệp Đông Á khoảng hai chục năm về trước khi họ cố bán cho nhiều mà không chú ý xem mỗi món hàng bán ra thì lời bao nhiêu và đóng góp chừng nào cho doanh lợi chung, tức là cho lợi nhuận của cả doanh nghiệp. Giáo sư Porter có nói đến một chân lý ngắn gọn, là "ưu tiên số một là phải có lời, ưu tiên thứ hai mới là mức tăng trưởng của doanh số!" Bán nhiều mà lời ít thì sẽ càng bán càng lỗ!
- Nếu có thể kết luận thì tôi cho là từ cả chục năm nay, Việt Nam được các quốc gia hay cơ quan quốc tế viện trợ rất nhiều để cải thiện cách suy nghĩ, tổ chức và làm ăn. Một nhân vật như Giáo sư Michael Porter mà đã chỉ đạo việc nghiên cứu và tới tận nơi nói chuyện thì Việt Nam nên chú ý tìm hiểu, học hỏi và áp dụng, trước tiên là từ giới chức hữu trách về kinh tế tài chính, sau đó là trên doanh trường. Quan trọng nhất là nhà nước phải xét lại nhiệm vụ của mình và thu hẹp vai trò của doanh nghiệp nhà nước để mở ra không gian kinh doanh cho tư nhân. Bản báo cáo có đưa ra một nhận xét chí lý. Rằng "doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam đang bị giao nhiệm vụ không thể thi hành nổi là vừa hoàn thành mục tiêu công ích, vừa phải có lợi nhuận, vừa tạo ra việc làm nên không thể sa thải lao động mà lại phải đạt năng suất cao". Sự phi lý đó khiến Việt Nam rất khó cạnh tranh mà chỉ giúp đảng viên cán bộ rất dễ kiếm tiền bỏ túi. Có lẽ đấy mới là lý do chính khiến bản báo cáo sẽ lại bị cất vào kệ sách và giá trị không được khai triển cho mọi người.
Việt Long: Ông có thể nói rõ hơn, vì sao những việc đó làm Việt Nam khó cạnh tranh mà lại giúp đảng viên cán bộ dễ kiếm tiền bỏ túi"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Đó là do lợi thế của Nhà nước trong việc chủ đạo nền kinh tế quốc dân mà không bị kiểm soát kỹ càng. Vì vậy những người quản lý các doanh nghiệp nhà nước đó cũng là những đảng viên trong guồng máy đảng, có được nhiều lợi thế, mà không chịu trách nhiệm trước quốc dân. Họ có thể làm bậy và trục lợi bất chính, dù lợi ích của doanh nghiệp nhà nước đóng góp cho nền kinh tế quốc dân rất nhỏ. Đó là lý do họ muốn chiếm lấy lợi thế và không muốn thay đổi.
Việt Long: Xin cám ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
Việc nhà hoạt động dân chủ Trần Huỳnh Duy Thức được nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do trước thời hạn có lẽ là một trong những vấn đề đã được nội các chính quyền Biden-Harris quan tâm và vận động từ năm 2021.
Đối với triết gia Immanuel Kant, lời nói dối là “cái ác bẩm sinh sâu xa trong bản chất con người” và cần phải tránh xa ngay cả khi đó là vấn đề sống còn1. Trong tác phẩm “Deciphering Lies”, Bettina Stangneth, 2017, viết rằng: “Trong số những lý do khiến người ta nói dối vì điều đó có thể giúp họ che giấu bản thân, ẩn náu và tránh xa những người xâm phạm vùng an toàn của họ.” Stangneth cho biết thêm, “cũng không khôn ngoan khi thả trẻ em ra thế giới mà không biết rằng người khác có thể nói dối chúng.” The Wasghington Post, ban kiểm tra sự thật, cho biết: Trong bốn năm làm tổng thống thứ 45, từ 2017-2021, đến cuối nhiệm kỳ, Trump đã tích lũy 30.573 lời nói dối trong suốt nhiệm kỳ tổng thống - trung bình khoảng 21 lời tuyên bố sai lầm mỗi ngày. Từ khi thua cuộc tái ứng cử vào tay tổng thống Joe Biden cho đến giờ này, tranh cử với bà Harris, ông Trump càng gia tăng khẩu phần nói dối, phong phú đến mức độ không thể đếm cho chính xác.
Câu chuyện hoang tưởng “di dân ăn thịt chó, mèo” của Donald Trump và JD Vance gây ra nỗi sợ hãi, tạo ra nhiều kích động tiêu cực, vì nó được nói ra trước 81 triệu dân Mỹ, từ một cựu tổng thống. Những lời vô căn cứ tràn đầy định kiến và thù hận đó như một bệ phóng cho con tàu “Kỳ Thị” bay vút vào không gian của thế kỷ 21, thả ra những làn khói độc. Nó như một căn bệnh trầm kha tiềm ẩn lâu ngày, nay đúng thời đúng khắc nên phát tán và lan xa. Nói như thế có nghĩa, con tàu “Kỳ Thị” này, căn bệnh này, vốn đã có từ rất lâu đời. Nó âm ỉ, tích tụ, dồn nén theo thời gian, chực chờ đến ngày bùng nổ. Một tuần qua, người Haiti, là nạn nhân của cơn bùng phát này. Gần nửa thế kỷ trước, và cho đến tận nay, là cộng đồng người gốc Việt.
Sự trỗi dậy của những nhóm cực hữu đang làm sống lại làn sóng kỳ thị chủng tộc, một căn bệnh trầm kha chưa bao giờ thực sự chấm dứt ở Hoa Kỳ. Để thực hiện những chương trình nghị sự của mình, những người theo chủ nghĩa thượng tôn da trắng đã thực hiện nhiều chiến lược, chiến thuật khác nhau. Trong những năm gần đây, nhiều nhà hoạt động đã cảnh báo các nhóm cực hữu đang cố sử dụng nền tảng giáo dục làm công cụ để bảo vệ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một bài viết trên trang mạng lithub.com của tác giả Jason Stanley đã phân tích sâu sắc về đề tài này.
Nhìn ở bề ngoài thì ông Benjamin Netanyahu, Thủ tướng Do Thái, đang làm cái việc của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Văn Thiệu từng làm với cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 1968. Năm đó ông Thiệu bị cáo buộc là hành động để đảng Dân Chủ thua đảng Cộng Hòa còn bây giờ thì, xem ra, ông Netanyahu lại đang tháu cáy với nước cờ tương tự tuy nhiên bản chất hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.