Hôm nay,  

Bắc Hàn Noi Gương Việt Nam?

07/11/200700:00:00(Xem: 9153)

...thu hút tư bản và kỹ thuật của thế giới... vẫn duy trì được hệ thống chính trị độc đảng...

Trong chuyến thăm viếng Bắc Hàn vừa qua của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, dường như lãnh tụ Cộng sản Bắc Hàn có nêu ý kiến là Bắc Hàn có thể thử nghiệm mô thức kinh tế của Việt Nam. Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu về câu chuyện ly kỳ này trong cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây.

Hỏi: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, từ hôm qua Thứ Hai mùng năm tháng 11, các kỹ sư Hoa Kỳ có lẽ đã bắt đầu tháo gỡ lò chế tạo chất plutonium tại căn cứ Yongbyon của Bắc Hàn. Đây là một bước quan trọng trong tiến trình giải tỏa kế hoạch chế tạo võ khí hạch tâm của Bắc Hàn và mở đường cho việc đưa xứ Cộng sản này trở lại với cộng đồng thế giới. Thế giới đang thở phào nhẹ nhõm về sự tiến bộ ấy và dư luận Đông Á cũng đang tự hỏi là liệu Bắc Hàn có noi gương Việt Nam hay Trung Quốc mà tiến hành việc cải cách kinh tế hầu cải thiện đời sống của người dân hay không.

Cách đây hơn một tháng, ban Hàn ngữ của đài Á châu Tự do cũng đã phỏng vấn ông về việc đó để phát thanh về Bắc Hàn. Cụ thể là họ yêu cầu ông nêu lên kinh nghiệm đổi mới của Việt Nam mà chính quyền và dân chúng Bắc Hàn có thể học hỏi. Vì vậy, chúng tôi xin đề nghị là trong chương trình kỳ này, ta có thể trao đổi về tấm gương Việt Nam cho Bắc Hàn. Câu hỏi đầu tiên ở đây là đã đến lúc Bắc Hàn mở cửa hay chưa"

Thưa trước tiên, chúng ta hãy nói về bối cảnh và về hy vọng của các nước Đông Á đối với nỗ lực cởi mở của chế độ Cộng sản Bắc Hàn.

Đầu tiên, Thứ Sáu mùng hai vừa qua, Thủ tướng Bắc Hàn, ông Kim Yong-il, mà ta có thể phiên âm thành Kim Anh Nhật để khỏi lầm với lãnh tụ Kim Jong-il là Kim Chính Nhật, đã đi du thuyết ba nước Đông Nam Á, bắt đầu là Việt Nam, rồi Malaysia, Cambốt và Lào, về các cơ hội đầu tư và mậu dịch với Bắc Hàn. Với Việt Nam, phái đoàn Bắc Hàn đã ký một số hiệp ước về hợp tác nông nghiệp, thể thao và văn hoá. Chuyến thăm viếng đó là một biến cố mới, nối tiếp thượng đỉnh giữa hai lãnh tụ Nam và Bắc Hàn cách đây đúng một tháng, vào mùng bốn tháng 10.

Hôm 28 tháng 10, tuần báo Yazhou Zhoukan, tức là "Á châu tuần san" hay "Asia Week", có tiết lộ là trong dịp Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thăm viếng thủ đô Bình Nhưỡng vào trung tuần tháng 10, lãnh tụ Kim Jong-il có nói là Bắc Hàn có thể áp dụng mô thức của Việt Nam để hồi phục nền kinh tế của mình.

Trước những biến cố ấy, dư luận Đông Á có thể kết luận là đã đến lúc Bắc Hàn mở cửa.

Hỏi: Nếu như họ phải mở cửa thì liệu Bắc Hàn có áp dụng mô thức Việt Nam không"

Trả lời cho câu hỏi đó, tôi thiển nghĩ là mỗi quốc gia lại có hoàn cảnh riêng, với lãnh đạo nhắm vào mục tiêu riêng, cho nên không thể áp dụng trọn vẹn mô thức của khác được.

Về mục tiêu của lãnh đạo, thì lãnh đạo Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Hàn đều cùng nhắm vào một mục tiêu then chốt, là làm sao mãi mãi cầm quyền. Vì mục tiêu ấy và cũng vì muốn thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, cả ba quốc gia vẫn bị chi phối bởi chủ nghĩa cộng sản đều muốn cải tổ kinh tế trong một chừng mực nhất định cho dân khỏi chết đói, bằng cách hợp tác với bên ngoài để thu hút tư bản và kỹ thuật của thế giới. Nhưng đồng thời vẫn duy trì được hệ thống chính trị độc đảng của mình.

Trong chiều hướng ấy, Bắc Hàn có thể tìm hiểu hai mô thức cải cách của Trung Quốc và Việt Nam để lượm lặt bí quyết chiêu dụ quốc tế. Khách quan mà nói thì họ có thể thấy mô thức Việt Nam thích hợp hơn, chẳng phải vì Hà Nội sáng suốt hơn mà vì Trung Quốc là một xứ cực lớn, với rất nhiều bài toán đa diện, nên có hoàn cảnh khác với Bắc Hàn.

Tuy nhiên, và đây cũng là điều mà dư luận cần chú ý, thật ra Bắc Hàn đã muốn xoay từ lâu rồi chứ không phải bây giờ mới bắt đầu nghĩ đến việc mở cửa.

Hỏi: Ông nêu lên một cái ý rất lạ! Vì sao ông cho rằng Bình Nhưỡng đã muốn đổi hướng từ lâu rồi"

Thời Chiến tranh lạnh, các chứng tật của chủ nghĩa Mác-Lênin và lề lối quản lý kinh tế tập trung bị dìm sâu dưới yêu cầu về an ninh cho chế độ. Nhưng kinh tế chính trị học Mác-Lenin của các nước như Bắc Hàn hay Việt Nam chỉ có thể tồn tại như vậy khi có một hậu phương yểm trợ là Liên Xô và Trung Quốc. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô tan rã, Bắc Hàn phải dựa vào Trung Quốc.

Thời ấy, Trung Quốc đã tiến hành chính sách mở cửa của Đặng Tiểu Bình để thoát cơn khủng hoảng, và bình thường hoá quan hệ với Nam Hàn để du nhập tư bản, kỹ thuật và cả kiến thức về công nghiệp hoá của Nam Hàn. Vì vậy, lãnh đạo Bình Nhưỡng thấy chột dạ. Năm 1992, lãnh tụ Kim Nhật Thành mới đành tiến hành cải cách, một cách rất dè dặt, y như Hà Nội thời đó. Khốn nỗi, ông ta tạ thế năm 1994 và con trai là Kim Chính Nhật mất mấy năm để củng cố quyền lực của mình, trong khi xứ sở lụn bại, kinh tế khủng hoảng, hai triệu người chết đói vì Bắc Hàn tự cô lập dưới khẩu hiệu gọi là "tự chủ". Và càng lệ thuộc nhiều hơn vào nguồn trợ cấp rất đáng ngại của Trung Quốc.

Qua thế kỷ 21, từ năm 2001, Bắc Hàn muốn xoay ra và dùng võ khí hạch tâm như một lối bắt bí thiên hạ để tống tiền, thực chất là để Hoa Kỳ phải quan tâm, đối thoại và dắt mình ra khỏi cơn khủng hoảng. Là chuyện đang xảy ra ngày nay. Nếu nhớ lại như vậy, người ta có thể hiểu vì sao Bắc Hàn sẽ không áp dụng mô thức Trung Quốc.

Hỏi: Sau khi nói về mục tiêu của lãnh đạo, bây giờ, ta hãy nói về hoàn cảnh của xứ sở. Bắc Hàn cần những gì về kinh tế và căn cứ trên thực tế đó, họ có thể áp dụng mô thức nào trong việc cải cách của họ"  

Bắc Hàn cần mở ra để tiếp nhận tư bản và kỹ thuật hầu công nghiệp hoá một xứ sở bị khoá trên vùng Đông-Bắc Á giữa hai đồng chí cũ là Liên bang Nga, Trung Quốc và một kẻ thù nhưng đồng bào là Nam Hàn. Ở vòng ngoài là Nhật Bản. Tuy nhiên, vì yêu cầu của chế độ độc tài, họ chỉ muốn mở ra trong chừng mực nhất định, ở những khu vực nhất định, hầu việc cải cách hay kinh tế thị trường không gây quá nhiều biến đổi trong xã hội dẫn tới những biến đổi về chính trị mà chế độ không chấp nhận được.

Họ có thể đang lần mò vào vết xe của Việt Nam hơn chục năm trước, khi lập ra khu chế xuất hay vùng kinh tế trọng điểm. Nôm na là đặc khu kinh tế, chẳng khác gì các tô giới thời thực dân vào thế kỷ 19. Cái khác là xưa kia, các nước Á châu bị ép như vậy, bây giờ là lãnh đạo độc tài Á châu tái lập vùng thuộc địa ngay trong nước. Bên trong, một thiểu số có quyền thì được tiếp xúc với - và trục lợi nhờ - giới đầu tư và thị trường bên ngoài,  cả xã hội còn lại vẫn tiếp tục sống dưới cái gọi là sự ổn định lạc hậu của xã hội chủ nghĩa.

Hỏi: Dường như là ông đang mô tả một hình thái phát triển đặc thù của Bắc Hàn chứ Việt Nam ngày nay đã ra khỏi lối suy nghĩ chật hẹp đó rồi và doanh nghiệp nước ngoài nay đã có thể thành lập ở mọi nơi tại Việt Nam.

Thưa đúng vậy, nhưng Việt Nam đã mất 10 năm mới tiến ra chỗ đó. Mười năm về trước, diễn đàn chuyên đề này của chúng ta có nói là nên dẹp bỏ loại hình khu chế xuất đã lỗi thời để cả lãnh thổ đều có thể mở ra với thế giới bên ngoài thì mới tiến hoà đồng đều.

Trở lại chuyện Bắc Hàn, lãnh đạo xứ này bị ám ảnh bởi nhu cầu kiểm soát và bị cột trong tư duy xã hội chủ nghĩa, lấy công nghiệp nặng làm cơ sở và mở ra bên ngoài theo nhãn quan Nga - Tầu. Họ khởi đi từ hai đặc khu kỹ nghệ đã có từ xưa. Một ở phiá Đông-Bắc, sát biên giới với Nga và tỉnh Cát Lâm của Tầu là Najin, gọi theo Nam Hàn, hay Rasin-Songbong, tức là La Tân Tiền Phong Quận. Khu thứ hai là Sinuiju - hay Tân Thọ Châu - đối diện với thành phố Đan Đông của tỉnh Liêu Ninh bên sông Áp Lục. Năm 2003, họ lập ra đặc khu kinh tế thứ ba, là Kaesong - hay Khai Thành - sát biên giới Nam-Bắc Hàn. 

Được khai thông bằng đường xá và thiết lộ, các đặc khu ấy thu hút được một số đầu tư Nga, Trung Quốc hay Nam Hàn, nghĩa là không nhiều và ít thành công. Chưa kể là năm ngoái, Trung Quốc còn đóng cửa không cho phép doanh gia đi qua làm ăn tại đặc khu Tân Thọ Châu vì sợ cạnh tranh với luồng xuất khẩu của họ từ Đan Đông!

Do kinh nghiệm ấy, Bắc Hàn có thể dùng các đặc khu này làm thỏi nam châm thu hút đầu tư quốc tế và mở thêm các hải cảng Nampo và Haeju làm thương cảng giao lưu với Hoàng hải và Nhật Bản và thế giới bên ngoài. Ưu thế họ nghĩ là mình có là khối lượng nhân công rẻ tiền và bị kiểm soát rất chặt chẽ để phục vụ các đặc khu được khoanh vùng trong thành lũy hầu ngăn ngừa được mọi sự ô nhiễm xã hội hay chính trị.

Hỏi: Nếu như vậy, có lẽ mô thức mở cửa của họ không giống với Việt Nam. Nhưng liệu họ có thành công theo chiến lược mở cửa hạn chế và khoanh vùng như vậy hay không"

Thưa rằng thành công hay không là căn cứ trên những mục tiêu của lãnh đạo. Chế độ Cộng sản Bình Nhưỡng chỉ cần huy động tư bản, thiết bị và công nghệ cho nền kinh tế lạc hậu của mình mà vẫn hạn chế ảnh hưởng của Tây phương hay tư tưởng tự do dân chủ. Cho nên mục tiêu không khác, nhưng khắt khe hơn Việt Nam. Trong các khu vực ấy, nhân viên được tuyển chọn và kiểm soát rất kỹ để cùng lắm thì học nghề của tư bản chứ không thể reo rắc những tư tưởng mà lãnh đạo gọi là phản động. Nếu chỉ nhắm vào mục tiêu đó thì sự thành bại tùy thuộc vào thiện chí đầu tư của quốc tế.

Hỏi: Thế liệu giới đầu tư bên ngoài có bước vào những đặc khu kỳ lạ ấy hay không"

Tôi thiển nghĩ là có vì ta không nên đánh giá thấp tham vọng hay lòng tham của thiên hạ.

Nam Hàn có thể tiếp tay Bắc Hàn trong chiều hướng ấy vì lý do chính trị, khi chính quyền khuyến khích doanh nghiệp đi vào hợp tác, là điều ta đã thấy. Một số liên doanh quốc tế cũng có thể nhảy vào và sở dĩ liên doanh là để phân tán rủi ro chính trị với nhau. Nhiều tập đoàn về năng lượng cũng muốn thăm dò một thị trường còn khép kín và có nhiều tài nguyên khoáng sản. Chủ yếu thì vẫn là giới đầu tư Trung Quốc, Nam Hàn và Âu châu, như  Đức, Anh, Ý, Thụy Sĩ. Họ lập nhà máy, mở trường đào tạo, lập quỹ đầu tư, v.v... và nếu Bắc Hàn hết bị phong tỏa thì đến lượt doanh nghiệp Mỹ rồi Nhật cũng sẽ không lỡ cơ hội, vì rủi ro chính trị của một chế độ bị sụp đổ coi như sẽ được đẩy lui.

Hỏi: Nói như vậy thì chiến lược phát triển khoanh vùng và có hạn chế như vậy vẫn có thể thành công được chứ"

Thưa nếu ta so sánh với tình hình khủng hoảng và hoàn cảnh chết đói năm năm về trước thì việc mở cửa như vậy quả là một tiến bộ và Bắc Hàn có thể sẽ thành công. Nhưng chỉ thành công chừng ấy thôi.

Lý do là đầu tư nước ngoài sẽ tập trung vào khoáng sản và nguyên liệu theo mô thức khai thác thời thuộc địa, với rất ít lợi ích toả rộng hay nhỏ giọt xuống dưới cho người dân. Thứ hai, mô thức đặc khu kinh tế hay khu chế xuất như vậy không thể có chuyển giao công nghệ sâu và rộng cho người dân. Nghĩa là người dân Bắc Hàn tiếp tục làm nô lệ và không học hỏi được gì để cải thiện cuộc sống của mình. Trong hoàn cảnh ấy, ta sẽ khó thấy một làn sóng đầu tư quốc tế tràn vào Bắc Hàn để tiếp cận và trao đổi với xã hội rồi sẽ thay đổi được mức sống của người dân xứ này, như chúng ta đang thấy tại Việt Nam.

Tuần này, khi thấy Tổng trưởng Thương mại Hoa Kỳ dẫn đầu một phái đoàn doanh gia Mỹ thăm viếng Việt Nam để mở rộng quan hệ ngoại thương và đầu tư, có lẽ lãnh đạo Bình Nhưỡng sẽ tìm hiểu rất kỹ để cân nhắc rủi ro và lợi ích. Việt Nam đã mất hai chục năm từ khi hé cửa cho đến nay thì có lẽ dư luận cũng chẳng nên nóng ruột hay hồ hởi tin vào một phép lạ kinh tế Bắc Hàn. Tư duy khiếp nhược của lãnh đạo và sự sợ hãi của người dân bị cộng sản cai trị quá lâu là điều gì đó rất khó gột bỏ được ngay.

Xin cám ơn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.