Hôm nay,  

Đi Tìm Đất Hiếm

10/28/201000:00:00(View: 12590)

Đi Tìm Đất Hiếm

Việt Long RFA/Nguyễn Xuân Nghĩa

...[TQ] muốn làm chủ một nguồn cung cấp kim loại và cho dân ta hít bụi độc, uống nước ô nhiễm...

Trước khi thăm viếng Malaysia và đến Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh thứ 17 của Hiệp hội 10 Quốc gia Đông Nam Á vào cuối tuần này, Thủ tướng Ấn Độ đã hội kiến với Thủ tướng Nhật Bản tại Tokyo vào ngày Thứ Ba 26. Về triển vọng hợp tác giữa hai nước được truyền thông loan tải thì ngoài hồ sơ an ninh, người ta chú ý đến việc Ấn Độ sẽ bán "kim loại hiếm" hay "các nguyên tố đất hiếm" cho Nhật Bản. Tin đó khiến dư luận để ý tới việc Nhật Bản cũng sẽ mua những thứ kim loại cực hiếm này của Việt Nam. Chuyện những "kim loại cực hiếm" ấy là gì" Diễn đàn Kinh tế yêu cầu nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa trình bày cùng quý thính giả. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa còn cho rằng Việt Nam lại có thể rút ra một số kinh nghiệm về kinh tế, sản xuất qua sự kiến này. Sau đây là cuộc trao đổi do Việt Long thực hiện...
Việt Long: Xin kính chào ông Nghĩa. Các vị Thủ tướng Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam đã và sẽ bàn thảo vấn đề cung cấp cho Nhật Bản những kim loại, hay nguyên tố, gọi là "đất hiếm". Ông vui lòng giải thích về những kim loại hay nguyên tố đó, và hoạt động của các nguyên thủ quốc gia vừa kể diễn ra trong bối cảnh nào" 
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng chúng ta nên tìm hiểu về bối cảnh trước.
- Thứ nhất, những động thái quân sự gần đây của Trung Quốc tại khu vực Kashmir và gần bang Arunachal Pradesh của Ấn và tại Đông hải ngoài khơi Nhật Bản khiến hai xứ Nam Á và Đông Á phải quan tâm và tăng cường hợp tác về nhiều mặt, kể cả an ninh. Điều ấy có lợi cho Việt Nam khi nhiều cường quốc trong khu vực đều chú ý đến sự bành trướng đáng ngại của Trung Quốc. Việc Ấn Độ hợp tác với Việt Nam về huấn luyện quân sự cũng nằm trong chiều hướng đó.
- Thứ hai, trong mâu thuẫn Hoa-Nhật, giữa Trung Quốc và Nhật Bản, bùng nổ từ Tháng Chín vừa qua, người ta chú ý đến một hồ sơ là việc Bắc Kinh hạn chế xuất khẩu kim loại đất hiếm qua Nhật, khiến các doanh nghiệp Nhật đều lúng túng và Chính quyền Nhật đang ráo riết đi tìm các nguồn tiếp liệu khác, thí dụ như tại Ấn Độ và Việt Nam, hoặc cả Hoa Kỳ, Úc hay Brazil. Bây giờ, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về sản phẩm chiến lược này, cứ bị gọi sai là "đất hiếm".
Việt Long: Như vậy, chúng ta bắt đầu nói về sản phẩm đó trước khi phân tích vì sao xứ nào cũng đang cần và vị thế của Trung Quốc trong lãnh vực này là gì.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Xuất phát từ nước Pháp vào thế kỷ 19, người ta dùng chữ "đất hiếm" hay "rare earth" để dịch chữ "terres rares" của Pháp. Đấy là 17 nguyên tố hóa chất có thể tìm thấy trên vỏ trái đất, là kim loại hiếm quý và cần thiết cho nhiều ngành công nghiệp. Nếu gọi là "kim loại hiếm" thì có lẽ đúng hơn và còn dễ hiểu hơn từ "Hy Thổ Kim Thuộc" của Trung Quốc.
- Trên đại thể thì sau khi xác định bằng địa chất học, ta phải đào cả tấn đất, cán vụn thành sỏi, rồi xay thành bụi để qua nhiều đợt đãi lọc tinh chế bằng vật lý, hóa học hay quang học thì gạn được 17 thứ kim loại không thể thiếu trong hầu hết máy móc thiết bị của nền văn minh hiện đại. Từ máy nói, máy ảnh, máy tính, máy lọc dầu đến máy bay và cả bom tinh khôn. Tức là từ kỹ nghệ điện toán, không gian đến quốc phòng, đến năng lượng v.v... người ta đều cần tới những kim loại này. Vì vậy, chúng mới là sản phẩm chiến lược.
Việt Long: Thế Trung Quốc giữ vị trí gì trong lĩnh vực chiến lược đó" Phải chăng vì Trung Quốc có rất nhiều những nguyên tố đất hiếm hay kim loại quý như ông vừa nói"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa, vẫn nói về bối cảnh thì đây là đề tài kinh tế thú vị vì cho chúng ta, nhất là Việt Nam, nhiều bài học bổ ích cho tương lai.
- Từ vài thế kỷ nay, cùng với đà công nghiệp hoá và tiến bộ của khoa học kỹ thuật, người ta tìm ra công dụng của các kim loại quý trên mặt trái đất. Hoa Kỳ là nước dẫn đầu về sản lượng vì có trữ lượng rất lớn. Ngoài ra, nhiều xứ khác cũng có các kim loại này, như nước Nga, Kazahkstan, Úc, Ấn Độ, Brazil, v.v... Khi cải cách kinh tế để công nghiệp hoá, Trung Quốc bắt đầu thấy ra công dụng đó, trong ba chục năm, họ đã đào xới lung tung và nay là quốc gia dẫn đầu thế giới về sản lượng kim loại hiếm. Tính đến năm ngoái thì trong sản lượng của cả thế giới là 124 ngàn tấn, có 120.000 tấn là của Trung Quốc, tương đương với 97%. Và trong trữ lượng tìm ra trên mặt địa cầu, tính đến năm ngoái là gần triệu tấn thì Trung Quốc có được 36%. Trong khi ấy, sản lượng của Hoa Kỳ thì từ đỉnh cao là 40 ngàn tấn vào năm 1983 đã trở thành... số không kể từ gần 10 năm nay!
Việt Long: - Tức là từ khi Trung Quốc nhảy vào ngành này, cách đây ba chục năm, thì đó cũng là lúc Hoa Kỳ bắt đầu rút lui rồi nhường ngôi vị số một cho họ! Ông cho biết tại sao như vậy"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Ta đang chứng kiến một kinh nghiệm kinh tế mà Việt Nam nên để ý. Xin hãy nói về Trung Quốc đã vì Việt Nam là nạn nhân trực tiếp và gián tiếp của mô thức Trung Quốc.
- Mô thức kinh tế Trung Quốc là sản xuất tối đa mà bất kể lời lỗ về kinh doanh vì chỉ để tạo ra công việc làm cho dân số quá đông. Quan niệm của lãnh đạo Bắc Kinh về "mối lời" là sự ổn định chính trị và xã hội bên trong và xây dựng thế lực kinh tế với bên ngoài. Nhưng cái phần lỗ mà họ không tính ra chính là những tổn thất về môi sinh, là khối tín dụng sẽ biến thành nợ thối hay là các doanh nghiệp sẽ phá sản nếu không được trợ cấp để tồn tại... Như nhiều ngành công nghiệp khác, kỹ nghệ khai thác kim loại hiếm của Trung Quốc là một điển hình.


- Từ khi cào đất hiếm, 30 năm về trước, Trung Quốc lại hồ hởi thi đua theo kiểu Bước Nhảy vọt Vĩ đại của Mao, vì các doanh nghiệp nhà nước bất kể lớn nhỏ đã được cấp phát tín dụng nhẹ lãi để đào đất hiếm mà bất kể chi phí. Trong 10 năm đầu sau cải cách, sản lượng tăng 40% một năm, rồi cứ năm năm lại nhân đôi một lần cho tới khi thành vô địch thế giới. Nhưng vì sản xuất ào ạt, cho nên Trung Quốc làm giá sụt mất 95% so với tình hình năm 1979!
Việt Long: Trước sự tung hoành đó của Trung Quốc, Hoa Kỳ và các nước khác tính sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Họ hoan hô vì có kim loại hiếm với giá cực rẻ thì tội gì cào đất và hít bụi độc cho dân thêm khổ" Không chỉ Mỹ mà các xứ khác cũng đều thấy là việc khai thác này bớt có lợi. Song song, luật lệ bảo vệ môi sinh và quyền lợi lao động cũng chặt chẽ hơn nên họ khỏi tìm kiếm đào xới làm chi khi đã có nhà cung cấp rẻ tiền là Trung Quốc. Nghĩa là việc xứ này bán rẻ kim loại quý có góp phần đáng kể cho cách mạng công nghệ toàn cầu từ đầu thế kỷ 21!
- Bây giờ, ta mới nói đến bài học của mô thức kinh tế Trung Quốc mà Việt Nam dại dột tưởng là mẫu mực. Phí tổn chìm, hay "ẩn phí" ở đây, là môi sinh bị hủy hoại, quyền lợi và sức khoẻ của công nhân không được bảo vệ, nhiều doanh nghiệp đào chui bán lậu với mức lời cực thấp và khi phá sản thì đành quịt nợ, làm hệ thống ngân hàng bị chìm dưới núi nợ xấu.
- Năm năm trước, Bắc Kinh mới thấy ra sự dại dột này. Họ nghiên cứu việc chấn chỉnh sản xuất và phân phối để tiến dần tới chế độ tập trung kiểm soát. Song song, họ nghĩ đến việc tìm nguồn cung cấp khác vì biết rằng với đà lạm thác, tức là khai thác vô trách nhiệm, trữ lượng kim loại quý sẽ chỉ vừa đủ cho nhu cầu nội địa. Thứ ba là họ phải giữ thế độc quyền về các sản phẩm chiến lược vì liên hệ đến an ninh. Đây là ý nghĩa câu nói của Đặng Tiểu Bình năm 1992, rằng "Trung Đông có dầu khí thì Trung Quốc có đất hiếm." Đó là võ khí chiến lược!
Việt Long: Sau khi thấy ra sự sai lầm, Trung Quốc đã làm những gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nhân kinh nghiệm này, ta nên trước tiên chú ý đến các dự án khai thác bauxite tại Việt Nam, đó là kết quả của sự giác ngộ Trung Quốc! Sau khi mua chuộc lãnh đạo, họ muốn làm chủ một nguồn cung cấp kim loại và cho dân ta hít bụi độc, uống nước ô nhiễm...
- Rồi đầu năm nay, lãnh đạo Bắc Kinh ra chỉ thỉ kiện toàn kiểm soát và điều hướng sản xuất. Từ Tháng Năm, họ cấm sản xuất lậu, dẹp luôn các cơ sở kém hiệu năng để chỉ còn 20 doanh nghiệp thay vì 90 đơn vị đào đất tìm kim loại hiếm. Rồi họ đặt ra hạn ngạch xuất khẩu, một năm không bán ra quá 35 ngàn tấn. Sau khi gây mâu thuẫn với Nhật Bản về tranh chấp và đụng độ quanh khu vực Senkaku/Điếu ngư đài vào mùng bảy Tháng Chín, họ hăm dọa sẽ ngưng xuất khẩu luôn, bất chấp cam kết về ngoại thương trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Khi Trung Quốc hạn chế dần việc xuất khẩu và giá cả của nhiều kim loại hiếm sẽ tăng. Doanh nghiệp và Chính phủ Nhật có thấy trước việc đó và đang chuẩn bị đối phó. Các nước khác cũng vậy.
Việt Long: Các quốc gia có thể đối phó như thế nào"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nói chung, bài toán cung cầu và giá cả đang đảo lộn nên tất nhiên chi phối các quyết định kinh doanh - là vi mô - và kinh tế, là vĩ mô.
- Thí dụ là phải tìm ra nguồn cung cấp điền thế, để thay dần kim loại Trung Quốc. Bài toán kinh doanh và kinh tế dẫn tới giải pháp hợp tác về ngoại thương và ngoại giao với các nước có kim loại hiếm này. Đó là sự hợp tác của Nhật với Ấn Độ, Cộng hoà Mông Cổ và Việt Nam để khảo sát và khai thác.
- Còn các nhà sản xuất lớn trước đây như Hoa Kỳ hay Úc cũng phải cân nhắc lại yếu tố lời lỗ và môi sinh để phục hoạt các mỏ đã có, như Mountain Pass tại California hay Mount Weld tại Úc. Thứ ba, nhờ giá tăng vì nguồn cung cấp thu hẹp thì người ta phải khảo sát địa chất để tìm ra dự trữ mới ở những nơi trước đây không ai cần ngó tới. Những tiến trình ấy sẽ mất nhiều năm mới thành dự án đầu tư rồi đi vào sản xuất.
- Tuy nhiên, ngay trước mắt thì mỗi kim loại lại có đặc tính riêng về kỹ thuật và giá cả. Có loại tối cần thiết cho năng lượng, không gian hay quốc phòng thì mua nơi nào với giá nào cũng phải trả. Có loại thật nhỏ và thật ra cực rẻ, chưa đầy 1% của giá thành thì nếu có phải mua đắt hơn, vấn đề vẫn chưa là nguy kịch. Có loại mà người ta có thể thay thế được thì phải tìm cách thay thế. Có loại thì có thể tái tạo từ phế vật cũ. Cũng có loại siêu hạng mà dù có đất thì Trung Quốc cũng chẳng thể sản xuất ra nên sẽ phải đổi chác với giá đắt hơn... Nói chung, có gần một chục sản phẩm có ý nghĩa sinh tử nhất mà mỗi loại lại xử trí một cách và sớm nhất thì phải vài năm mới hoàn thành.
Việt Long: Tức là từ hai đến năm năm tới, các quốc gia và doanh nghiệp sẽ phải tính toán lại. Việt Nam nên làm gì trong hoàn cảnh đó"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Trước hết, Việt Nam nên rút tỉa bài học Trung Quốc để rà soát lại từ chiến lược kinh tế đến các dự án hợp tác mà Bắc Kinh nắm dao đằng chuôi còn dân ta là nạn nhân. Các dự án bauxite là thí dụ đầu tiên. Thứ hai, ViệtNam có trữ lượng đáng kể, có thể là 17 triệu tấn đất hiếm, nhưng là loại xin gọi là "xốp", là nhẹ vì có mật độ kim loại ít nên cũng đừng vội lạc quan.
- Then chốt nhất khi đi vào khai thác thì Việt Nam cần cân nhắc lợi ích đếm được bằng tiền với những phí tổn chìm về môi sinh hay sức khoẻ. Khi các nước công nghiệp hoá như Pháp, Đức, Nhật, đang cần các sản phẩm này thì Việt Nam nên hợp tác với họ hơn là với Trung Quốc. Nhưng trong hợp tác thì cần định giá cho đúng so với các ẩn phí và nên hợp tác để học lấy công nghệ hiện đại, có hiệu năng cao và xử lý bùn đất một cách an toàn nhất về môi sinh. Khi ấy, Việt Nam mới thấy thế nào là văn minh tiên tiến so với sự mờ ám vẩn đục của dự án bauxite.
Việt Long: Xin cảm ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
Việt Nam và Trung Quốc đã ký 14 Văn kiện hợp tác an ninh Chính trị, Kinh tế-Thương mại và Văn hóa-Báo chí trong chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Tổng Bí thư Tô Lâm từ ngày 18 đến 20/08/2024. Trong số này, Văn kiện kết nối và thiết lập 3 Tuyến đường sắt giữa hai nước được gọi là “anh em” đã giúp Trung Quốc liên thông ra Biển Đông và bành trướng thế lực kinh tế...
Tại Campuchia, kênh đào Phù Nam Techo, trị giá 1,7 tỷ USD sẽ kết nối Phnom Penh và Vịnh Thái Lan, tượng trưng cho niềm tự hào dân tộc, an ninh và kết nối thương mại quốc tế. Người ta có thể cảm thấy như thế qua lời tuyên bố của Thủ tướng Campuchia Hun Manet và của ông Hun Sen, trong cương vị cố vấn, người đã chuyển giao quyền lực từ cha sang con vào năm ngoái...
Danh từ được tác giả dùng trong bài này không phải là danh từ theo tự loại mà là một thuật ngữ của Việt Cộng. Thuật ngữ Việt Công hay là danh từ Việt Cộng là những thuật ngữ, những từ được dùng trong nước dưới chính quyền Cộng sản Việt Nam. Ở trong nước người ta không dùng từ “Việt Cộng” mặc dầu Việt Cộng chỉ có ý nghĩa là Cộng Sản Việt Nam chớ không có nghĩa gì khác. Phải nói rõ ràng và dài dòng như vậy để tránh hiểu lầm và hiểu sai. Những danh từ đề cập trong bài viết này đa số là những danh từ kinh tế, vì chủ đề của bài viết là kinh tế, phân tích những ván đề kinh tế, nhận định về kinh tế chớ không phải chính trị, mặc dầu kinh tế không thể tách rời khỏi chính trị, xuất phát từ chính trị và tác động trở lại đời sống của mỗi con người chúng ta.
“Tôi hơi chậm hiểu lại rất chóng quên nên dù đã lê lết qua hơi nhiều trường ốc (trong cũng như ngoài nước) nhưng trình độ học vấn và kiến thức cũng chả̉ tới đâu, vẫn chỉ ở mức làng nhàng. Nói tóm lại là thuộc loại “xoàng”! Ơ! “Xoàng” thì đã sao nhỉ? Cũng không đến nỗi trăng/sao gì đâu, nếu tôi biết điều (biết chuyện – biết thân – biết phận) hơn chút xíu. Khổ nỗi, tôi lại cứ tưởng là mình cũng thuộc loại đầu óc trung bình (hoặc chỉ dưới mức đó không xa lắm) nên ghi danh học – tùm lum/tùm la – đủ thứ phân khoa: Triết Lý, Tâm Lý, Xã Hội, Nhân Chủng …
Một bài viết ngay sau khi được bầu vào chức Tổng Bí thư đảng CSVN cho thấy ông Tô Lâm đã hiện nguyên hình một người giáo điều, bảo thủ và hoài nghi trong “hợp tác quốc tế” với các nước. Trước hết ông cáo giác: “Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” Lời tố cáo này không mới vì chỉ “nói cho có” và “không trưng ra được bằng chứng cụ thể nào”, giống hệt như những người tiền nhiệm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.