Hôm nay,  

Hốt Hoảng Mới Dễ Gây Khủng Hoảng

06/03/200800:00:00(Xem: 10054)

...lãnh đạo không thấy gì ở ngoài đời dù khi đó lạm phát đã là mối nguy cho cả nền kinh tế...

Trong mấy tuần qua, tình hình kinh tế Việt Nam đã có những triệu chứng đáng ngại của một cuộc khủng hoảng khi nhiều thị trường, nghề nghiệp và thành phần dân chúng tỏ vẻ hốt hoảng vì những tin xấu dồn dập xảy ra khiến nhiều người hết còn biết xoay trở ra sao. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về những yếu tố gây ra tâm lý hoảng loạn đó qua phần trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, sẽ do Việt Long thực hiện.

Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, những tin tức dồn dập từ Việt Nam cho thấy một không khí hốt hoảng dường như đang xảy ra trên các thị trường chứng khoán, ngân hàng hay địa ốc, trong bối cảnh của nạn lạm phát phi mã, mới chỉ hai tháng đầu năm đã vượt 6%.

Trong một chương trình chuyên đề kỳ trước của chúng ta, ông phát biểu rằng ông không nghĩ là kinh tế Việt Nam đang ở mé bờ khủng hoảng, nhưng lãnh đạo xứ này đang nhận được nhiều hồi chuông cảnh báo đáng chú ý. Vì vậy, trong chương trình kỳ này, xin đề nghị là ta sẽ trở lại vấn đề ứng phó với khủng hoảng với câu hỏi đầu tiên ở đây, là vì sao lại có tâm lý hốt hoảng ấy về tình hình kinh tế Việt Nam"

- Trong nhiều chương trình liên tiếp, khi phân tích tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam, với viễn ảnh suy trầm có thể xảy ra từ Hoa Kỳ qua các khối kinh tế khác và dội về tình hình vật giá hay sản xuất tại Việt Nam, tôi có nhiều lần trực tiếp hay gián tiếp nói tới một hiện tượng tâm lý là "chính nỗi hốt hoảng mới dễ gây ra khủng hoảng". Dường như điều ấy đang xảy ra tại Việt Nam. Chúng ta cần bình tĩnh nhìn ra nhiều khía cạnh của vấn đề để không góp phần gây thêm không khí hoảng loạn bất lợi cho sinh hoạt kinh tế của người dân.

Trước hết, sự hốt hoảng thường xảy ra sau một giai đoạn lạc quan hồ hởi không cơ sở, nôm na là vì hồ hởi sảng nên mới dễ hốt hoảng bậy! Ta có nhìn thấy sự hồ hởi lạc quan thiếu cơ sở trên nhiều lĩnh vực, từ việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO khiến đầu tư nước ngoài sẽ chảy vào Việt Nam như nước và Việt Nam sẽ xuất khẩu rất mạnh, cho đến những đỉnh cao của thị trường chứng khoán hay số tín dụng cấp phát hàng loạt cho tư doanh, v.v... Bây giờ, khi đụng vào mặt trái của một số vấn đề, nhiều người quá lạc quan đã trở thành bi quan thái quá, và tâm lý ấy càng dễ khiến người ta ưu lo mà lấy quyết định sai.

Hỏi: Nhưng, là người thường hay cảnh báo về những điều ông gọi là u ám của kinh tế, ông có công nhận là Việt Nam đang cùng lúc gặp rất nhiều vấn đề hay không" Thí dụ như thị trường chứng khoán đang bị tụt đáy với chỉ số VN-Index đã mấp mé 600 điểm, tức là mất phân nửa giá trị so với đỉnh cao năm ngoái, hoặc cơn sốt lãi suất của các ngân hàng khi bị cạn kiệt thanh khoản khiến nhiều cơ sở có thể phá sản nay mai.

- Tôi nghĩ rằng tình hình nguy kịch, nhưng không ở những mặt nổi đó, và có lẽ chúng ta cần giải thích sự việc cho rõ ràng ở đây, trong từng lĩnh vực, từng thị trường.

Hỏi: Nếu vậy, ta hãy nói trước hết về thị trường chứng khoán hay chỉ số tiêu biểu là VN-Index nay đang tuột đáy, và một số nhà đầu tư cá nhân đã mới vừa gửi thư khẩn lên Thủ tướng để xin có biện pháp cấp cứu thị trường chứng khoán.

- Qua nhiều lần trả lời phỏng vấn của đài Á châu Tự do, tôi có nêu dự báo gây khó chịu cho nhiều người là chỉ số này có thể tuột đến 820 điểm, rồi 760 điểm và nếu rớt khỏi đáy 675 điểm thì chưa biết là sẽ tuột đến đâu nữa. Điều ấy đang xảy ra trước mắt chúng ta.

Nhưng, tôi sẽ lại làm nhiều người phật ý nữa khi nói ra vài sự thật cơ bản.

Trước hết, người ta chỉ nên đầu tư vào thị trường cổ phiếu đồng tiền tiết kiệm của mình, chứ đừng nên dùng lợi tức chi tiêu hàng ngày vào việc đó. Và phải đầu tư trong tinh thần cẩn trọng là nếu có mất sạch thì việc ấy vẫn không ảnh hưởng đến mức sống của gia đình, trong khi vẫn phải tự chuẩn bị là nếu giá cổ phiếu sụt quá 7 hay 8% của giá mua nguyên thủy thì phải có can đảm bán ngay để giảm lỗ chứ đừng cay cú.

Nhiều người lại không đầu tư mà đầu cơ, và vì quá lạc quan mà đâm ra bị lỗ nặng. Trên đại thể thì đây chỉ là một thiểu số tương đối có tiền của một xã hội có hơn 84 triệu dân. Nhưng sự hốt hoảng của họ lại có thể gây họa cho đa số còn lại là những người đang lo sốt vó vì miếng ăn hàng ngày khi lương thực và thực thẩm tăng giá vùn vụt.

Tình hình nguy kịch không nằm tại hai thành phố lớn, mà trong phản ứng của các cơ quan lãnh đạo trước sự hốt hoảng này. Trước khi giới đầu tư lập kiến nghị cầu cứu thì Bộ Tài chính đã muốn điều tiết chính sách kinh tế vĩ mô để vực thị trường chứng khoán dậy. Nó nguy kịch vì từ nguyên thủy, thị trường chứng khoán được lập ra để huy động vốn tiết kiệm vào đầu tư, bây giờ, người ta lại muốn dùng tài sản công để bơm tiền vào thị trường hầu cấp cứu các nhà đầu cơ. Và bơm tiền khi đang bị lạm phát tiền tệ trên hai số. Theo thiển ý thì việc Bộ Tài chính hiểu lầm về chức năng của thị trường mới là điều đáng sợ.

Hỏi: Nhưng không lẽ người ta cứ mặc nhiên để các nhà đầu tư hay đầu cơ bị lỗ hay sao"

- Thưa ông, điều nguy kịch nằm ngay trong câu hỏi ấy. Người có trách nhiệm về kinh tế quốc dân cần lượng định xem sự sa sút của thị trường chứng khoán có ảnh hưởng ra sao đến nền sản xuất của kinh tế quốc gia, thí dụ như đến nguồn vốn và sức sản xuất của các công ty được yết giá trên thị trường. Nhà nước chỉ nên can thiệp để khai thông ách tắc hầu quy luật thị trường được vận hành hài hoà, trơn tru, chứ không du di hoặc di chuyển tài sản từ chổ này qua chỗ khác nhằm cứu vớt một thành phần nào đó mà không có lợi ích gia tăng sản xuất.

Làm như vậy thì các nhà đầu tư hay đầu cơ sẽ lại có tâm lý tôi xin gọi là "ỷ thế làm liều", kinh tế học gọi là moral hazard, tức là tiếp tục "chơi stock" như đánh bạc và thầm mong rằng khi hữu sự thì sẽ có nhà nước bơm tiền cấp cứu. Vấn đề nguy kịch là khi lãnh đạo phản ứng theo tâm lý của một thành phần dân chúng và gây thiệt hại cho các thành phần khác. Chúng ta cũng thấy tâm lý đó trên thị trường ngân hàng, hay thị trường ngoại hối.

Hỏi: Nói về thị trường ngân hàng, từ mấy tuần qua các ngân hàng bị lao đao vì thiếu thanh khoản, phải vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất rất cao. Nếu Chính quyền có tung ra biện pháp cấp cứu thì cũng là bình thường và cần thiết chứ"

- Thưa, không phải là ngân hàng nào cũng bị lao đao như vậy.

Chúng ta cần phân biệt năm ngân hàng quốc doanh với mấy chục ngân hàng thương mại cổ phần. Các ngân hàng quốc doanh vẫn còn dư thanh khoản và còn xoay trở có lời trong những đột biến vừa qua. Vụ khủng hoảng này càng củng cố ưu thế của ngân hàng quốc doanh và đấy là hậu quả bất lợi nhất trong lâu dài vì sức đóng góp rất kém hiệu năng kinh tế của loại dự án quốc doanh do các ngân hàng quốc doanh tài trợ.

Bên kia, một số ngân hàng thương mại đã lại vung tay quá trán, cho vay quá nhiều thì mới bị lúng túng. Trong một kỳ trước, chúng ta có nói đến sự "đào thải phũ phàng" với hàm ý là một số cơ sở có thể vỡ nợ. Nhưng thật ra nhiều ngân hàng thương mại cổ phần khác vẫn còn khả năng ứng phó và nhờ vậy sẽ còn vững mạnh hơn sau cơn thử thách này. Hãy xem các ngân hàng thương mại có vốn nước ngoài chủ động xoay trở ra sao thì mình biết.

Hỏi: Ông có vẻ lạc quan hơn mọi khi nên không nói tới điều nguy kịch của ngân hàng"

- Điều nguy kịch ở đây nằm trong cách ứng phó của các cơ quan hữu trách, với mối nguy là một vụ sụp đổ dây chuyền đã từng thấy của các hợp tác xã tín dụng hai chục năm trước.

Ngân hàng Nhà nước thì muốn hút bớt tiền ra khỏi lưu thông bằng cách nâng mức dự trữ pháp định và đòi các ngân hàng phải mua tín phiếu với lãi suất âm từ ngày 17 này. Quyết định ấy nhất thời gây ra nạn can kiệt tín dụng khiến họ phải đảo ngược quyết định là bơm thêm tiền vào lưu thông, là điều chúng ta đã phân tích kỳ trước. Trong lúc ấy, Bộ Tài chính lại lên tiếng rằng nên xét lại việc bắt các ngân hàng phải mua 20 ngàn tỷ tín phiếu.

Thị trường lập tức hốt hoảng vì thấy sự thiếu thống nhất và phối hợp giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước. Tôi nghĩ rằng trong một kỳ sau mình sẽ phải dành riêng một chương trình chuyên đề cho lĩnh vực ngân hàng và vai trò của Ngân hàng Nhà nước tại Việt Nam.

Hỏi: Bước sang một lĩnh vực khác là vấn đề ngoại hối hay cách ứng xử với làn sóng đô la đang tràn vào Việt Nam mà đổi không ra tiền đồng, ông không thấy đó là một nguy cơ khủng hoảng hay sao"

- Nguy cơ khủng hoảng nằm trong khả năng ứng phó rất kém của các cơ quan hữu trách. Bộ Tài chính có cho là lạm phát sở dĩ xảy ra một phần do Chính quyền không nhìn thấy làn sóng đầu tư nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam nhờ hiệu ứng WTO nên mới bị lúng túng. Tôi nghĩ rằng vấn đề thật ra không nằm ở đó!

Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể đã lên tới 21 tỷ thay vì 14 tỷ đô la như dự báo vào năm ngoái, nhưng đấy chỉ là số cam kết, chứ chưa được thực hiện tức là chưa trút vào Việt Nam. Dự báo sai nếu có thì nằm trong số tiền từ hải ngoại gửi về, ở nhà gọi là "kiều hối": nó đã tăng gần gấp đôi, lên tới sáu bảy tỷ và gấp đôi số đầu tư được thực hiện trong năm. Nhưng, chuyện dự báo ấy vẫn chưa là trầm trọng.

Chuyện trầm trọng là chính sách vĩ mô của Việt Nam liên quan đến cách xử lý khối đô la ấy qua đối giá của nó là đồng bạc Việt Nam và qua tỷ giá tiền đồng so với tiền Mỹ, tức là qua hối suất đồng đô la.

Ngân hàng Nhà nước phải bơm tiền mua đô la mà hút lại chỉ được một phần và gây ra lạm phát mạnh, là điều chúng ta đã đề cập từ tháng Sáu năm ngoái. Ngân hàng Nhà nước phải thi hành việc đó để xây dựng số dự trữ ngoại tệ rất mỏng của Việt Nam, nhưng họ lại không có quyền quản lý khối dự trữ này, với hệ lụy là vừa bị lạm phát tiền tệ nay lại vừa thiếu tiền đồng. Nói nôm na là Việt Nam vừa mới vừa khơi dòng để bơi ra biển lớn thì đã bị nước mặn ngập đầy ruộng.

Hỏi: Thế giới bên ngoài phê phán ra sao về những hồ hởi ban đầu và nay lại gặp nạn thiếu tiền đồng và sự cạn kiệt tín dụng của thị trường Việt Nam"

- Báo chí trong nước ít nói đến chứ giới đầu tư bên ngoài đang theo dõi sự việc rất sát. Một điển hình là việc tập đoàn đầu tư Morgan Stanley đem vào 217 triệu đô la mà không đổi được ra tiền đồng theo quy định, để kịp hùn 10% số vốn với một cơ sở tài chính của PetroVietnam. Ngày 20 tháng trước, Thủ tướng của Việt Nam phải đặc cách cho công ty đầu tư này hùn vốn bằng đô la và gây trò cười cho thế giới.

Các doanh nghiệp nước ngoài cũng than phiền là họ không tìm ra tiền đồng để thanh toán chi phí kinh doanh thường nhật. Họ tự hỏi nhau về khả năng quản lý vĩ mô của Việt Nam với những biện pháp mâu thuẫn giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước khiến họ bị kẹt ở giữa. Điều ấy cũng gây ra tâm lý hốt hoảng và rất bất lợi cho Việt Nam với quốc tế.

Hỏi: Như ông vừa trình bày thì dường như ta thấy ra mâu thuẫn hay khác biệt quan điểm và chính sách giữa Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính. Điều ấy có đúng không và nếu như vậy thì có nên cải tổ lại cơ chế lãnh đạo kinh tế tài chính để có một cơ quan thi hành một chủ trương và chính sách thống nhất không"

- Nếu có thể tóm lược rất ngắn thì Việt Nam đang gặp vài vấn đề rất cụ thể sau đây.

Thứ nhất, nhiều người đi vào thị trường mà không biết gì về quy luật thị trường, nên cứ hồ hởi sảng rồi hốt hoảng bậy. Đây là vấn đề thông tin và giáo dục, quan trọng nhất là thông tin trung thực kịp thời từ các cơ quan hữu trách, trước tiên là Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước. Có thông tin nhất quán và đáng tin thì người ta sẽ bớt được những phát biểu mâu thuẫn của giới hữu trách và tránh được cả nạn đổ vấy trách nhiệm.

Thứ hai là trách nhiệm về quản lý tài nguyên tài chính, từ khối dự trữ ngoại tệ đến khối tiền tệ lưu hành, trong đó có cả trái phiếu hay tín phiếu: do ai phát hành và dùng làm gì với kết quả là ai được hưởng" Trách nhiệm ấy không minh bạch và có khi chòng chéo nên mỗi cơ quan như muốn kéo chăn về một góc và ở giữa là người dân bị lạnh.

Thứ ba là trách nhiệm điều hành vĩ mô. Thí dụ là ngân sách quốc gia bơm tiền như nước vào các dự án kém hiệu năng của khu vực công và gây bội chi rất lớn rồi phải vay dân bằng trái phiếu. Trong khi Ngân hàng Nhà nước đang hút nước để ngừa lạm phát thì lại phải in tiền để phát hành tín phiếu. Vì điều hành kém nên một bên như tát nước vào một bên hút nước ra, rồi lại căn cứ trên quan điểm của một thị trường hay thành phần để nói rằng mình làm như vậy là đúng, có khi còn dựa vào tâm lý quần chúng để tìm cách hạ bệ người khác.

Khi mà chưa có sự nhất thống về chính sách và trách nhiệm ở trên cùng mà lại lập ra một loại "siêu bộ", như ông hàm ý là phải có cơ quan điều hợp ở trên - và dưới sự lãnh đạo của một Phó Thủ tướng chẳng hạn - hầu tránh được cảnh "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" thì tôi e rằng chính vị Phó Thủ tướng Đặc trách Kinh tế Tài chính ấy sẽ gieo họa cho kinh tế do những lầm lẫn về chính sách được ngần ấy cơ quan phủ bộ chấp hành. Các nước Đông Á đã từng bị khủng hoảng 10 năm trước vì sự "nhất quán trong sai lầm" đó.

Điều nguy kịch nhất ở đây chính là tầm nhìn của cơ chế cao nhất. Nếu đọc kết quả kỳ họp cuối tháng trước của Hội đồng Chính phủ, hoặc lên cao hơn, xem báo cáo của Hội nghị kỳ Sáu của Ban chấp hành Trung ương hồi trung tuần tháng Giêng, người ta còn sợ hãi hơn nữa. Dường như lãnh đạo không thấy gì ở ngoài đời dù khi đó lạm phát đã là mối nguy cho cả nền kinh tế, trước khi thổi bùng lên sự hốt hoảng phổ biến ngày nay.

Nếu không khéo thì với đà này, năm nay lạm phát có thể vượt 40%. Đây mới là kịch bản đáng hốt hoảng nhất.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.