Hỏi (Bà Trần T.Đ): Tôi kết hôn vào năm 1994, hiện có 3 cháu, 2 trai một gái, 12, 9 và 8 tuổi. Chồng tôi làm supervisor cho một công ty. Cách đây gần 9 tháng, sau nhiều lần về Việt Nam công tác, chồng tôi đã không còn chăm sóc lo lắng cho gia đình và con cái như xưa.
Vấn đề đã được đem ra bàn cãi, nhưng chúng tôi không thể hóa giải được. Sau đó không lâu chồng tôi lại phải đi Việt Nam.
Khi trở lại, mặc dù chúng tôi vẫn sống chung một nhà nhưng mạnh ai lo công việc của người đó. Công việc của tôi thì cũng chỉ là công việc của một bà nội trợ mẫu mực, ngòai việc lo lắng cơm nước cho gia đình và đưa các cháu đi học, tôi không làm gì khác hơn là đi học part-time.
Cách đây chừng 4 tuần lễ, sau khi đi Việt Nam về, chồng tôi đã tự ý lấy một số đồ đạc và đến tá túc tại nhà của một người bạn. Sau đó ông lại nhờ người bạn chở tất cả các đồ đạc của ông đến địa chỉ mới ông.
Tuy không còn ở chung nhà, nhưng ông vẫn chu cấp tiền bạc cho các con như thường lệ.
Gần đây, vì công ty của ông đã đổi chủ nên ông quyết định nghỉ làm. Hiện ông thất nghiệp và đang kiếm việc làm.
Từ ngày nghỉ việc, ông không còn chu cấp tiền bạc cho mẹ con tôi như trước, vì thế tôi đã khai báo điều này cho phòng thất nghiệp và được họ cho lãnh tiền trợ cấp.
Vì không còn nhận tiền trợ cấp của các cháu như trước đây, nên tôi đã báo cho ông ta biết là tôi có ý định sẽ chuyển các cháu sang học các trường công lập gần nhà.
Biết được việc này chồng tôi đã dọa tôi rằng nếu tôi chuyển các cháu sang học tại các trường công lập thì ông ta sẽ nộp đơn giành quyền nuôi dưỡng các cháu, đồng thời yêu cầu tôi không được chuyển trường, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến tâm lý tình cảm và việc học của các cháu.
Xin LS cho biết là liệu đơn xin và sự phản đối của chồng tôi về quyết định chuyển trường cũng như việc giành nuôi con có được tòa chấp thuận không. Tôi nghe nói chồng tôi đang có bồ tại Việt Nam, tôi có thể xin tòa không cho phép chồng tôi đến thăm các cháu được không"
*
Trả lời: Trong vụ Reynold & Reynold [2007] FamCA 42, hai bên đương sự bắt đầu sống chung với nhau vào tháng 5 năm 1992 và kết hôn vào tháng 9 năm 1993. Người vợ 39 tuổi và người chồng 51 tuổi. Họ có 2 người con, D 12 tuổi học lớp 6, và J được 9 tuổi, học lớp 3, vào lúc xét xử vụ tranh tụng này.
Hai bên đương sự ly thân vào tháng 8 năm 2003 nhưng vẫn còn ở chung một nhà, và cuối cùng đã thực sự ly thân vào tháng 8 năm 2003, khi người vợ và 2 đứa con đã dọn ra khỏi nhà.
Người vợ và 2 đứa con hiện sống tại M. Công việc chủ yếu của bà là nội trợ và làm bồi part-time.
Vào ngày 24 tháng 9 năm 2004 hai bên đã đồng ý xin tòa một “án lệnh đồng thuận” (Consent Orders). Trong án lệnh đó hai bên đã đồng ý rằng người chồng có quyền sống tại “căn nhà do 2 vợ chồng tậu mãi trước đây” (the former matrimonial home). “Các bên đương sự cùng chia xẻ trách nhiệm lâu dài về con cái” (the parties share the joint long-term responsibility for the children). Riêng về việc phân chia tài sản thì vẫn chưa được giải quyết.
Vào ngày 6 tháng 12 năm 2004 người chồng bị đột quỵ và điều đó đã ảnh hưởng đến sự tranh chấp về việc nuôi dưỡng con cái. Sau khi người chồng bị “ddột quỵ” (a stroke), việc chăm sóc các đứa bé đều thuộc về người vợ.
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2006, Tòa đã đưa ra “án lệnh tạm thời” (an interim order) tạm đình hõan thi hành “án lệnh đồng thuận” trước đó, để cho phép 2 đứa con được sống với mẹ. Tòa cũng đưa ra án lệnh chỉ định “một chuyên viên về tâm lý, nhà tâm lý học” (psychologist) để giúp tòa liên hệ đến việc đưa ra án lệnh nuôi dưỡng con cái.
Vì thế, vào ngày 5 tháng 9 năm 2006 Tòa đã sửa đổi án lệnh đưa ra trước đó để cho phép D được tùy ý cùng em mình J đến thăm cha của mình vào bất cứ lúc nào mà em muốn.
Kể từ lúc người cha bị “ddột quỵ”, người mẹ đã quyết định chuyển các cháu từ trường tư sang học trường công lập. Người chồng đã nộp đơn phản đối về quyết định này của người vợ vì “người chồng cho rằng đó là một quyết định đơn phương” (it is put by the husband that that was a unilateral move).
Người vợ tranh cãi rằng bà ta làm việc part-time, và không còn nhận được tiền cấp dưỡng từ người chồng, đặc biệt là bà ta hòan tòan không nhận được sự đóng góp tiền bạc nào của người chồng liên hệ đến học phí của 2 đứa con. Bà đang thiếu nhiều món nợ, trong đó bà đã nợ bộ an sinh xã hội $34,000 do sự trả vượt quá mức mà bà ta được quyền hưởng. Ngòai ra bà còn thiếu nợ các thẻ tín dụng $30,000 và những món nợ khác khỏang $16,000.
Điều này có nghĩa là người vợ đang sống vượt quá số tiền mà bà kiếm được, vì ngòai tiền trợ cấp của chính phủ bà ta chỉ làm bồi part-time và kiếm thêm được $230 mỗi tuần.
Bà mẹ đưa ra lý do chuyển các con vào trường công lập vì tình trạng eo hẹp tài chánh hiện tại của bà ta. Bà đưa ra bằng chứng rằng mặc dầu cùng làm chủ với người em về căn appartment mà gia đình để lại, trong phần chia đó bà chỉ được hưởng $160,000. Còn căn nhà của hai vợ chồng trị giá $470,000 và còn nợ ngân hàng rất ít. Ngòai ra bà còn một số tiền trong quỹ hưu trí là $79,000.
Người vợ cho rằng một lý do khác để bà chuyển các cháu sang học trường công lập vì việc đưa đón các cháu sẽ tạo nên các phí tổn khác. Nội tiền xăng để đưa đón các cháu cũng phải tốn mất từ $80 đến $100.
Tòa đã chấp nhận bằng chứng cũng như lập luận của người vợ và đã đưa ra phán quyết rằng người vợ được phép chuyển trường cho các cháu.
Dựa vào phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng việc chồng bà đe dọa là sẽ nộp đơn xin tòa đòi dành quyền nuôi dưỡng các cháu, cũng như việc phản đối quyết định của bà trong việc chuyển đổi các cháu từ trường tư sang học trường công, việc này khó có thể thuyết phục được tòa, đặc biệt là trong hiện tại chồng của bà hòan tòan không trả bất cứ món tiền cấp dưỡng nào cho các cháu.
Riêng câu hỏi liên hệ đến việc là liệu bà có thể xin tòa ngăn cản chồng bà không được đến thăm các cháu, vì ông ta hiện đang có bồ tại Việt Nam, theo thiển ý của chúng tôi, thì đó không phải là lý do để thỉnh cầu tòa về việc ngăn cản không cho ông ta đến thăm 2 cháu. Quyền của cha hoặc mẹ thăm con là quyền được luật pháp bảo vệ, đặc biệt là khi các cháu còn nhỏ dại.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thọai cho chúng tôi để được giải đáp.