Tôi quen với anh Như Phong từ năm 1955 khi tôi về "đuổi gà cho vợ" ở Thủ Đức. Anh lên thăm tôi ở trại gà của tôi, làng Phước Long và đề nghị tôi nên viết một chuyện dài cho báo "Tự Do", một công việc không phải là ngành chuyên môn của tôi. Tôi, suốt cuộc đời làm báo chưa bao giờ viết chuyện dài hay chuyện ngắn, trừ phi sau khi tới Hoa Kỳ, tôi cho xuất bản một tác phẩm chưa hoàn tất: "Sương như búa bổ" vào đầu năm 1991.
Dù tôi không có dịp hợp tác với báo "Tự Do", nhưng từ đó tôi và anh Như Phong trở thành đôi bạn tri kỷ. Chúng tôi đã hợp tác với nhau trong nhiều cơ hội trong báo"Quyết tiến" của tôi và trong nhiều cuộc vận động chánh trị trong những năm trước 1968, là năm có cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Cộng Sản Việt Nam. Trong một thời gian dài, anh Như Phong đã là chủ bút của tờ "Quyết tiến", viết các bài "Quan điểm" thay tôi.
Tình bạn của chúng tôi mỗi ngày mỗi khắn khít hơn, cho tới khi chúng tôi cùng đi tù CS. Tôi và anh đã gặp nhau tại Phan Đăng Lưu và lúc đó tôi có hỏi anh sao trước ngày 30/4/75, anh có nhiều nơi quen biết, anh có nhiều phương tiện hơn tôi, sao anh không thoát đi mà ở lại để bị tù tội. Anh nói với tôi: "Tôi ở lại vì tôi muốn chia xẻ những đau khổ với đồng bào tôi".
Tôi ra tù CS lần thứ hai lầm thứ 2 năm 1988. Tôi gặp lại anh Như Phong ở Tân Định. Lúc bấy giờ tôi biết rằng anh có nhiều liên lạc với anh Đoàn Viết Hoạt. Tôi không có cái hân hạnh gặp anh Hoạt một lần nào khi ở Saigon và linh cảm cũng như kinh nghiệm cho tôi biết rằng nếu tôi "dính dấp" tới sự liên hệ của anh Như Phong và anh Đoàn Viết Hoạt thì trước sau gì thì tôi cũng sẽ bị bắt. Tôi quyết định vượt biên và tôi đã ra đi vào cuối tháng 3/1989. Không bao lâu sau khi tôi vượt biên tới được Hoa Kỳ thì anh Như Phong đã bị bắt cùng với anh Đoàn Viết Hoạt và nhiều anh em khác nữa trong nhóm Diễn Đàn Tự Do.
Trước khi tôi ra đi, tôi có cho anh Như Phong biết và anh ấy có dặn tôi, một khi qua Mỹ nên tìm gặp các anh Nguyễn văn Canh, Lê Xuân Khoa và Đinh thạch Bích để làm việc. Tôi rất tiếc tôi đã không làm được tròn lời anh dặn vì nước Mỹ lớn quá, tôi không có cơ hội để được gặp và hợp tác với các anh em mà anh Như Phong đã dặn tôi.
Thật ra, giữa tôi và anh Như Phong có rất nhiều kỷ niệm, nhưng tôi nghĩ rằng có cái kỷ niệm mà tôi xin kể ra đây là đáng chú ý nhứt, một kỷ niệm mà giới văn nghệ sĩ và ký giả ở Saigon, hầu hết đều biết. Đó là câu chuyện "hai thằng ăn mày".
Số là ít lâu sau khi tôi tới Hoa Kỳ, tôi nhận được thư của anh Như Phong cho tôi biết rằng anh ấy có ý muốn qua Hoa Kỳ như tôi vậy. Tôi liền viết thư về cho anh Như Phong và nói rằng muốn tranh đấu thì nên ở lại bên nhà. Bên Hoa Kỳ này đã có "một thằng ăn mày" rồi không nên có một thằng ăn mày thứ hai nữa. Bức thư của tôi dường như được phổ biến trong giới văn nghệ sĩ và ký giả ở Saigon, và mấy tuần sau tôi nhận được thư trả lời của anh Như Phong, nói với tôi rằng ở bên Mỹ tôi đi ăn mày còn có người cho, chứ ở Việt Nam đi ăn mày cũng chẳng ai cho. Tôi bèn viết thư trả lời cho anh ấy rằng nếu anh muốn trở thành "thằng ăn mày thứ hai" thì xin cứ việc qua.
Giờ đây, anh Như Phong ra đi trước tôi. Có thể anh em ở vùng thủ đô ít ai thấy tôi gần anh Như Phong trong thời gian anh ấy sống ở đây, nhưng tôi có cảm nghĩ rằng chúng tôi thông cảm với nhau quá nhiều, dù có gặp nhau mỗi ngày hay mỗi tuần hay không. Anh đang sửa cuốn: "Ngã Tư Quốc Tế" của anh Đỗ Bá Thếâ, một công việc mà tôi nhờ anh ấy vì anh Như Phong, cũng như tôi đều mến phục tài viết chuyện dài của anh Đỗ Bá Thế, một đệ tử thân tín của lãnh tụ Đệ Tứ Quốc Tế Tạ Thu Thâu.
Nay anh Như Phong đã là người thiên cổ, riêng tôi tuy ở xa, cũng xin dâng lên anh một nén hương, lòng tôi muốn theo anh. Tôi nghĩ rằng anh Như Phong sẽ thông cảm với tôi, không bỏ tôi lâu bơ vơ giữa chợ đời.
Santa Ana 20/12/2001