Khóa Họng Tế Bào
Đã lâu tôi không viết gì về khoa học. Nhân dịp có bốn nhà khoa học Mỹ mới được giải Nobel tôi muốn điểm lại vài nét về tế bào trong cơ thể con người. Các nhà bác học lần đầu tiên đã mở được cánh cửa một lãnh vực mới đầy hy vọng: phương pháp chữa những bệnh nan y bằng tế bào. Thứ hai 2-10-06, giải Nobel về Y học đã về tay hai người: Giáo sư Andrew Z. Fire, bệnh lý học và Di truyền học của Viện Đại học Stanford và Giáo sư Craig Mello, Y khoa Đại học Massachussetts, vì đã tạo được cơ cấu khóa họng các đơn vị di truyền sinh ra bệnh. Hai ngày sau, giải Nobel Hóa học đã được trao Giáo sư Roger Konberg của Stanford và giải Nobel Vật lý đã được tặng cho Giáo sư George Smooh, Đại học Berkeley. Như vậy trong 4 người, có 3 người thuộc Bắc California.
Câu chuyện dùng tế bào của con người để chữa bệnh thật hấp dẫn. Tế bào là những viên gạch cơ bản xây dựng thành loài người chúng ta. Ngày nay chúng ta đã quen với từ ngữ "tế bào gốc" trên mặt báo. Khi còn là một giọt máu trong bụng mẹ, chúng ta đã xuất phát từ một tế bào. Tế bào đó nẩy nở sinh trưởng bằng cách phân chia một thành hai, hai thành bốn, bốn thành tám...Các tế bào đó phải có thông tin di truyền để bảo cho nhau biết khi bào thai thành hình trong bụng mẹ, cái nào họp thành những mô gan, phổi, máu, thịt, tóc, tai, da, mắt v.v... và những nét di truyền khác riêng của mỗi người. Các chỉ thị sinh học đó được mã số hóa trong một phân tử gọi là DNA. Như chúng ta đã biết ngày nay DNA, cũng như dấu chỉ tay, là căn cước không thể chối cãi của một cá nhân. DNA của mỗi người chúng ta được phân phối trong hơn 23 loại nhiễm sắc thể để phân biệt thành nam nữ, sắc tộc, mầu da. hình dạng...
Từ năm 1953, hai nhà bác học James Watson và Francis Clark (giải Nobel) đã đưa ra mô hình DNA giống như hình thang cuốn xoắn vặn. Hai thành chiếc thang này được nối liền như bậc thang, mỗi bậc là tiêu biểu của một "gien", đơn vị di truyền. Mỗi hình thang cuốn vặn đó chỉ lớn bằng một vài micron (micron là một phần ngàn của ly hay một phần triệu của mét). Nhưng nếu một nhà sinh hóa học gỡ xoắn kéo dài nó ra, nó đo được đến 2 mét. DNA nằm trong nhân tế bào. Tế bào sinh vật nhỏ xíu, chỉ có máy hiển vi điện tử mới nhìn thấy, nhân của tế bào còn nhỏ hơn nữa, vậy làm thế nào tế bào này nói chuyện với tế bào khác để thông tin di truyền" Trời đã tạo cho "loài" DNA bản năng là cứ tự động tách làm đôi, nghĩa là mỗi bậc của cái thang DNA vào một lúc nào đó đều tự động gẫy ở giữa, khiến hình thang thành hai mảnh, rồi hai mảnh đó lại tự động mọc thêm ra phần nửa còn thiếu, rút cục có hai DNA giống hệt nhau. Một nước không thể có hai vua, bởi vậy một anh DNA thừa phải chuồn ra khỏi nhân, lội qua lần vỏ tế bào để chui ra ngoài đi... tiếu ngạo giang hồ.
Nhưng các nhà sinh hóa không gọi các đấng anh hùng này là kẻ đi lang thang, họ gắn cho các vị đó một hỗn danh là RNA, vì các vị này có nhiệm vụ chui vào các tế bào khác mới thành hình để bảo cho lũ đệ tử mới ra đời học đúng y hệt môn võ công của sư phụ DNA đã truyền dạy, theo đúng mệnh lệnh của đấng Thái Sư thúc tổ ở trên cao thẳm. RNA chính là những e-mail hay fax của các DNA gửi cho nhau vậy. Chuyện vui đã xong, bây giờ nói đến chuyện khổ. Nếu võ công của sư phụ nào đó có dính chút tà độc thì sao" Nói theo ngôn ngữ thời đại "đi-gi-tồ" ngày nay, nếu chẳng may các e-mail thông tin đó có vai-rớt (virus) thì thật khổ. Nó là tai họa làm chết cả đống computer chớ đừng tưởng chuyện đùa. Chúng ta đã biết các bệnh nan y lừng danh thiên hạ ngày nay như bệnh AIDS, ung thư, Alzheimer, run tay Parkinson, tiểu đường, bệnh liệt Lou Gehrig...đều do từ tế bào này truyền qua tế bào khác. Và bây giờ đúng lúc chốn giang hồ sặc mùi gió tanh mưa máu, các vị sư phụ sinh học, di truyền học và y học nhẩy vào vòng chiến.
Các vị sư phụ thời đại DNA hô: "Bịt mồm chúng lại để chúng khỏi bép xép". Thật ra vuờn bông làm im tiếng "gien" (gene silencing) đã có những đóa hoa sơ khởi từ năm 1990, khi một nhà sinh học tìm cách tô mầu thêm cho các "gien" trong tế bào để dễ ghi nhận chúng, tựa như phương pháp tô mầu đậm cho các loại hoa cây cảnh. Không ngờ khi mầu lạ vào tế bào bông hoa, nó đã làm cho các "gien" ở đây trắng xóa hết chẳng còn mầu sắc gì hết. Thì ra can thiệp vào "gien" lại làm cho chúng bị bạch hóa. Các nhà bác học về sau thử đi thử lại cũng không hiểu tại sao có hiện tượng này. Hai nhà bác học Fire và Mello sau nhiều năm nghiên cứu, có sáng kiến chích vào tế bào một phân tử RNA để nó bị mất đi khả năng tạo ra một loại protein nào đó có hại, tức là khóa họng nó lại, không cho nó phổ biến các loại protein có "vai-rớt" độc của các bệnh nan y. Fire và Mello sẽ chia nhau giải Nobel Y học 2006, trị giá 1.4 triệu đô-la.
Giải Nobel Hóa học dành cho Giáo sư Roger Kornberg vì công cuộc nghiên cứu kiên trì trong 30 năm qua đã rọi tia sáng vào sự bí mật về đời sống của các tế bào, nhất là loại RNA biết thâu góp nhiều "gien" khác nhau, tạo ra những bản sao mới để phố biến. GS Kornberg nói: "Có một ngành học mà những người có kiến thức đều cần phải biết, đó là Hóa học. Hóa học là chìa khóa để hiểu được mọi chuyện". Roger Kornberg là con của một nhà bác học lừng danh, Giáo sư Arthur Kornberg của Đại học Stanford, năm 1959 đã lãnh giải Nobel về Y học. Về mặt Hóa học, quãng đường nghiên cứu của Roger Kornberg đã gặp không thiếu gì trở ngại về dụng cụ. Nhưng tình trạng đã thay đổi nhờ sự nâng cấp máy của Phòng Thí nghiệm Bức xạ ở Stanford, tia ra quang tuyến X chiếu vào RNA và phân tích được những mẫu tán xạ. Trong RNA có những enzyme, hóa chất hữu cơ gây biến đổi, tạo ra chất protein trong nhân tế bào của sinh vật hay cây cỏ. Cuộc khảo cứu của Kornberg nhằm tìm cách truyền mệnh lệnh cho RNA tạo ra những "gien" trị bệnh nan y của con người.
Ba giải Nobel về tay ba nhà bác học ở California khiến ngành nghiên cứu về tế bào gốc mà tiểu bang này đã chiếm hàng đầu, nay càng có khả năng nở rộ hơn nữa. Triển vọng việc dùng tế bào chữa bệnh sẽ kéo theo sự phát triển của một loạt những ngành công kỹ nghệ cũng như kinh doanh liên hệ đến Y khoa.