Trong khi Hoa Kỳ bị kết án là đế quốc hung hăng thì đồng đô la Mỹ lại tuột dốc so với hai loại ngọai tệ "mạnh" là tiền Nhật và tiền Âu. Biến động này làm nhiều người kinh ngạc đến nỗi cổ phiếu Mỹ tuột giá hôm Thứ Hai. Kinh ngạc hơn là khủng hoảng có thể vì đó bùng nổ ở... Âu châu, trong khi Hoa Kỳ lại thủ vai cứu hỏa quốc tế.
Giá trị tương đối của hai đơn vị tiền tệ được đo bằng hối suất, hoặc tỷ giá mãi lực. Chúng ta có thói quen cho rằng nền kinh tế mạnh thì phải có đồng tiền mạnh, và hối suất đồng bạc phản ảnh sức mạnh đó. Điều này không đúng hẳn nhưng rõ ràng là sai khi người ta so sánh tình hình kinh tế của ba đầu máy kinh tế mạnh nhất địa cầu là Mỹ, Nhật và Liên hiệp Âu châu.
Tuần qua, khi đồng đô la tuột giá so với tiền Âu (đồng Euro) và lần đầu tiền đồng Euro chiếm lại được tỷ giá phát hành ngày mùng 1 tháng Giêng năm 1999, là một đồng Euro ăn 1 đô la 17 xu (1/1.17) thì thị trường chứng khoán Mỹ hốt hoảng sụt giá, với mức sụt giá cao nhất kể từ hai tháng nay. Phản ứng đó của thị trường chứng khoán có thể che dấu những biến động còn trầm trọng hơn ở bên dưới.
Giá trị và trị giá đồng đô la
Tiền Mỹ là đơn vị giao hoán phổ biến nhất và là tài sản được nhiều người thụ đắc làm phương tiện tiết kiệm, đầu tư hoặc giao dịch có giá trị nhất. Vấn đề là kinh tế Mỹ đang gặp hai thất quân bình. Thứ nhất là thất quân bình công chi thu: ngân sách quốc gia bị khiếm hụt hay bội chi, vì chi nhiều hơn thu. Số khiếm hụt năm nay có thể lên tới 300 tỷ đô la, gần 3% tổng sản lượng nội địa là hơn 10.000 tỷ đô la. Thứ nhì là thất quân bình chi phó, tức là thiếu hụt cán cân vãng lai, vì nhập cảng nhiều hơn xuất cảng, số nhập siêu đó có thể lên tới gần 400 tỷ đô la. Khi bị khiếm hụt như vậy, kinh tế Mỹ phải vay mượn ở bên ngoài, trung bình mỗi ngày hơn một tỷ đô la. Chỉ nội yếu tố đó cũng khiến tiền Mỹ mất giá, chưa kể là lãi suất ngân hàng Mỹ đã được hạ tới mức thấp nhất kể từ hơn 40 năm qua để kích thích sản xuất chống nạn suy trầm kinh tế và khủng bố. Cho nên đổi tài sản bằng ngoại tệ khác ra tiền Mỹ để đầu tư vào thị trường tài chánh Mỹ trở thành ít hấp dẫn hơn xưa. Yếu tố lãi suất đó khiến tiền Mỹ mất giá và sẽ còn mất giá, nếu ta thấy hai loại khiếm hụt trên chưa có chiều hướng chấm dứt.
Vấn đề là tiền Mỹ lại là phương tiện giao hoán phổ biến cho nên việc điều chỉnh giá cả, (tức là sụt giá) nếu thể hiện tiệm tiến từng bước thì không gây biến động. Nếu không, các nền kinh tế buôn bán với Mỹ đều bị hiệu ứng, cụ thể là vì tài sản lưu trữ bằng đô la bị mất giá. Từ đầu năm 2002, tiền Mỹ đã điều chỉnh như vậy, sụt giá trung bình khoảng 15%, nhưng không đột ngột rớt giá, dù có chiến tranh và khủng bố.
Thất quân bình toàn cầu
Vấn đề ở đây lại phức tạp hơn thế nếu ta nhìn trên toàn cảnh của địa cầu. Hầu hết các nền kinh tế khác trên thế giới đều mong bán hàng cho Mỹ để gia tăng sản xuất và nâng cao lợi tức của mình. Mà họ càng bán hàng cho Mỹ thì kinh tế Mỹ càng bị thiếu hụt, tiền Mỹ thu về lại đầu tư vào thị trường Mỹ (cho vay bằng cách mua công khố phiếu, hoặc đầu tư bằng cách mua cổ phiếu hay cơ sở sản xuất trên đất Mỹ), với hối suất có thể sút giảm. Chúng ta đang chứng kiến một sự thất quân bình mở rộng (Quỹ Tiền tệ IMF ước tính mức độ thất quân bình đó là 1,5% tổng sản lượng toàn cầu, một con số kỷ lục) giữa Hoa Kỳ tiêu thụ nhiều và mắc nợ nhiều với các nước khác thì tiết kiệm và xuất cảng nhiều . Khi gặp hiện tượng này, thì đến một lúc nào đó phải có điều chỉnh, lý tưởng là điều chỉnh chậm rãi, nếu không thì điều chỉnh đột ngột, ta gọi trường hợp đó là khủng hoảng.
Cho nên, bỏ bên ngoài yếu tố an ninh (nạn khủng bố hay bất ổn thường trực tại Trung Đông) mà chỉ nhìn trên lãnh vực kinh tế không thôi, ta thấy đô la Mỹ phải sụt giá và mong là sẽ sụt từng đợt nhẹ ("hạ cánh an toàn" thay vì "gãy cánh tan tành"). Khi đồng Mỹ kim tuột giá thì 1) hàng hóa Mỹ sẽ rẻ hơn, dễ xuất cảng hơn, 2) hàng hóa nước ngoài sẽ đắt hơn, nhập cảng vào Mỹ cao giá hơn, và kết cuộc là 3) số nhập siêu (nhập nhiều hơn xuất) của Mỹ sẽ giảm. Nghĩa là một trong hai khiếm hụt kể trên sẽ giảm và nguy cơ đột biến vì thất quân bình tài chánh sẽ được đẩy lui. Nếu xuất cảng của Mỹ gia tăng và kinh tế Mỹ khởi phát sau giai đoạn suy trầm, lợi tức doanh nghiệp và cá nhân sẽ tăng, số thu về thuế khóa cũng vậy, và bội chi ngân sách sẽ giảm, tức là loại khiếm hụt thứ nhì nói trên cũng chấm dứt. Sau khi giảm giá 15%, có lẽ đồng đô la sẽ còn phải sụt thêm chừng gần 10% nữa thì mới gọi là rơi vào đúng thực giá của nó.
Vấn đề là hoàn cảnh "hạ cánh" của đô la Mỹ lại không nằm trong khả năng chủ động của chính quyền mà còn tùy thuộc vào yếu tố khác. Thí dụ như vào kinh tế Âu châu.
Âu châu sắp gãy cánh
Kinh tế Âu châu hiện đang mấp mé một cơn khủng hoảng, và dấu hiệu tiên báo điều đó chính là việc đồng Euro tăng giá so với tiền Mỹ! Biến cố nhỏ gây ra phản ứng lớn của thị trường là khi Ngân hàng Trung ương Âu châu (ECB) quyết định không hạ lãi suất vào ngày tám tháng Năm vừa qua, khiến đồng Euro vọt tăng so với Mỹ kim. Khi hối suất Euro lên tới 1,17 Mỹ kim (bằng với giá phát hành năm xưa) thì ta thấy triệu chứng bất an bắt đầu, và một vụ điều chỉnh đột ngột có thể xảy ra nay mai, kể từ tháng Sáu này trở đi. Sở dĩ như vậy là vì kinh tế Âu châu ngày nay đang bị trì trệ nặng hơn kinh tế Mỹ và tiền Âu càng lên giá thì kinh tế càng suy sụp.
Kể về sức sản xuất, sản lượng kinh tế Âu châu được ước tính vào khoảng gần 16% tổng sản lượng toàn cầu, nhưng từ 1995 thì kinh tế Âu châu bị suy trầm, với tốc độ tăng trưởng chỉ ở khoảng 2,2% một năm; từ hai năm qua, tốc độ đó sụt mất nửa, bằng 1,1% và có thể chỉ còn 0,8% vào năm tới. So sánh với kinh tế Mỹ với tốc độ đã sút giảm vì vụ bể bóng đầu tư từ năm 2000, thì đà tăng trưởng của Âu châu chỉ bằng phân nửa, với tỷ lệ thất nghiệp cao từ gấp rưỡi tới gấp đôi. Nguy hại hơn vậy, sức mua của thị trường nội địa Âu châu cũng giảm (đà gia tăng chỉ bằng gần một phần ba của thời kỳ 1995-2000) và nền kinh tế này giờ đây trông cậy nhiều nhất vào thị trường bên ngoài, nghĩa là trông cậy vào xuất cảng. Mà muốn xuất cảng mạnh thì hàng Âu châu phải rẻ hơn, là điều khó xảy ra khi tiền Âu châu lại lên giá so với tiền Mỹ!
Chánh sách già nua
trong xã hội ách tắc
Nguyên nhân của nghịch lý này được thấy trong cơ cấu tiền tệ và chánh sách ngân hàng của Âu châu. Khi quyết định thống nhất tiền tệ, hai nước mạnh nhất Âu châu thời đó là Đức và Pháp đã đặt ra một luật chơi cho mọi thành viên, là duy trì ổn định tiền tệ để phát triển kinh tế. Cụ thể là không xứ nào được phép bội chi ngân sách quá 3% tổng sản lượng GDP và phải nghiêm ngặt canh chừng nguy cơ lạm phát. Ngày nay, kinh tế thế giới, nhất là kinh tế Âu-Mỹ-Nhật không bị đe dọa bởi nguy cơ lạm phát mà lại có thể bị nguy cơ trái ngược là giảm phát (hàng họ giảm giá mà bán không được, làm sản xuất suy sụp và thất nghiệp tăng, một mối nguy còn đáng sợ hơn lạm phát). Vậy mà như người lái xe cứ nhìn vào kính chiếu hậu ở đàng sau để đi tới đàng trước, Âu châu vẫn duy trì các biện pháp tài chánh lỗi thời, không cải tổ nổi chế độ hưu bổng và nhất là không hạ lãi suất ngân hàng. Điều đó khiến cho nhất thời tiền Âu lại cao giá hơn tiền Mỹ, và cản trở việc điều chỉnh tiền Mỹ một cách tiệm tiến trong khi làm kinh tế Âu châu khó vượt ra khỏi hố suy sụp. Cho đến khi Âu châu gặp nguy cơ giảm phát còn cao hơn Hoa Kỳ và bị đẩy tới chỗ phải lật đật hạ lãi suất, lúc đó, sóng gió sẽ xảy ra trên thị trường Âu châu và lây lan qua thị trường Á châu, làm thế giới lại trông cậy vào khả năng cấp cứu của kinh tế Mỹ. Nghĩa là lại ghét Mỹ thêm vì cần Mỹ hơn!
Nếu lại còn nhìn vào kinh tế Nhật Bản và hối suất giả tạo của đồng Nhân dân tệ Trung Quốc, người ta e rằng một vụ đột biến hối đoái vẫn có thể xảy ra, với hậu quả nguy kịch cho kinh tế Á châu còn hơn dịch Sars... là chuyện chúng ta sẽ tìm hiểu trong một dịp khác.
Giá trị tương đối của hai đơn vị tiền tệ được đo bằng hối suất, hoặc tỷ giá mãi lực. Chúng ta có thói quen cho rằng nền kinh tế mạnh thì phải có đồng tiền mạnh, và hối suất đồng bạc phản ảnh sức mạnh đó. Điều này không đúng hẳn nhưng rõ ràng là sai khi người ta so sánh tình hình kinh tế của ba đầu máy kinh tế mạnh nhất địa cầu là Mỹ, Nhật và Liên hiệp Âu châu.
Tuần qua, khi đồng đô la tuột giá so với tiền Âu (đồng Euro) và lần đầu tiền đồng Euro chiếm lại được tỷ giá phát hành ngày mùng 1 tháng Giêng năm 1999, là một đồng Euro ăn 1 đô la 17 xu (1/1.17) thì thị trường chứng khoán Mỹ hốt hoảng sụt giá, với mức sụt giá cao nhất kể từ hai tháng nay. Phản ứng đó của thị trường chứng khoán có thể che dấu những biến động còn trầm trọng hơn ở bên dưới.
Giá trị và trị giá đồng đô la
Tiền Mỹ là đơn vị giao hoán phổ biến nhất và là tài sản được nhiều người thụ đắc làm phương tiện tiết kiệm, đầu tư hoặc giao dịch có giá trị nhất. Vấn đề là kinh tế Mỹ đang gặp hai thất quân bình. Thứ nhất là thất quân bình công chi thu: ngân sách quốc gia bị khiếm hụt hay bội chi, vì chi nhiều hơn thu. Số khiếm hụt năm nay có thể lên tới 300 tỷ đô la, gần 3% tổng sản lượng nội địa là hơn 10.000 tỷ đô la. Thứ nhì là thất quân bình chi phó, tức là thiếu hụt cán cân vãng lai, vì nhập cảng nhiều hơn xuất cảng, số nhập siêu đó có thể lên tới gần 400 tỷ đô la. Khi bị khiếm hụt như vậy, kinh tế Mỹ phải vay mượn ở bên ngoài, trung bình mỗi ngày hơn một tỷ đô la. Chỉ nội yếu tố đó cũng khiến tiền Mỹ mất giá, chưa kể là lãi suất ngân hàng Mỹ đã được hạ tới mức thấp nhất kể từ hơn 40 năm qua để kích thích sản xuất chống nạn suy trầm kinh tế và khủng bố. Cho nên đổi tài sản bằng ngoại tệ khác ra tiền Mỹ để đầu tư vào thị trường tài chánh Mỹ trở thành ít hấp dẫn hơn xưa. Yếu tố lãi suất đó khiến tiền Mỹ mất giá và sẽ còn mất giá, nếu ta thấy hai loại khiếm hụt trên chưa có chiều hướng chấm dứt.
Vấn đề là tiền Mỹ lại là phương tiện giao hoán phổ biến cho nên việc điều chỉnh giá cả, (tức là sụt giá) nếu thể hiện tiệm tiến từng bước thì không gây biến động. Nếu không, các nền kinh tế buôn bán với Mỹ đều bị hiệu ứng, cụ thể là vì tài sản lưu trữ bằng đô la bị mất giá. Từ đầu năm 2002, tiền Mỹ đã điều chỉnh như vậy, sụt giá trung bình khoảng 15%, nhưng không đột ngột rớt giá, dù có chiến tranh và khủng bố.
Thất quân bình toàn cầu
Vấn đề ở đây lại phức tạp hơn thế nếu ta nhìn trên toàn cảnh của địa cầu. Hầu hết các nền kinh tế khác trên thế giới đều mong bán hàng cho Mỹ để gia tăng sản xuất và nâng cao lợi tức của mình. Mà họ càng bán hàng cho Mỹ thì kinh tế Mỹ càng bị thiếu hụt, tiền Mỹ thu về lại đầu tư vào thị trường Mỹ (cho vay bằng cách mua công khố phiếu, hoặc đầu tư bằng cách mua cổ phiếu hay cơ sở sản xuất trên đất Mỹ), với hối suất có thể sút giảm. Chúng ta đang chứng kiến một sự thất quân bình mở rộng (Quỹ Tiền tệ IMF ước tính mức độ thất quân bình đó là 1,5% tổng sản lượng toàn cầu, một con số kỷ lục) giữa Hoa Kỳ tiêu thụ nhiều và mắc nợ nhiều với các nước khác thì tiết kiệm và xuất cảng nhiều . Khi gặp hiện tượng này, thì đến một lúc nào đó phải có điều chỉnh, lý tưởng là điều chỉnh chậm rãi, nếu không thì điều chỉnh đột ngột, ta gọi trường hợp đó là khủng hoảng.
Cho nên, bỏ bên ngoài yếu tố an ninh (nạn khủng bố hay bất ổn thường trực tại Trung Đông) mà chỉ nhìn trên lãnh vực kinh tế không thôi, ta thấy đô la Mỹ phải sụt giá và mong là sẽ sụt từng đợt nhẹ ("hạ cánh an toàn" thay vì "gãy cánh tan tành"). Khi đồng Mỹ kim tuột giá thì 1) hàng hóa Mỹ sẽ rẻ hơn, dễ xuất cảng hơn, 2) hàng hóa nước ngoài sẽ đắt hơn, nhập cảng vào Mỹ cao giá hơn, và kết cuộc là 3) số nhập siêu (nhập nhiều hơn xuất) của Mỹ sẽ giảm. Nghĩa là một trong hai khiếm hụt kể trên sẽ giảm và nguy cơ đột biến vì thất quân bình tài chánh sẽ được đẩy lui. Nếu xuất cảng của Mỹ gia tăng và kinh tế Mỹ khởi phát sau giai đoạn suy trầm, lợi tức doanh nghiệp và cá nhân sẽ tăng, số thu về thuế khóa cũng vậy, và bội chi ngân sách sẽ giảm, tức là loại khiếm hụt thứ nhì nói trên cũng chấm dứt. Sau khi giảm giá 15%, có lẽ đồng đô la sẽ còn phải sụt thêm chừng gần 10% nữa thì mới gọi là rơi vào đúng thực giá của nó.
Vấn đề là hoàn cảnh "hạ cánh" của đô la Mỹ lại không nằm trong khả năng chủ động của chính quyền mà còn tùy thuộc vào yếu tố khác. Thí dụ như vào kinh tế Âu châu.
Âu châu sắp gãy cánh
Kinh tế Âu châu hiện đang mấp mé một cơn khủng hoảng, và dấu hiệu tiên báo điều đó chính là việc đồng Euro tăng giá so với tiền Mỹ! Biến cố nhỏ gây ra phản ứng lớn của thị trường là khi Ngân hàng Trung ương Âu châu (ECB) quyết định không hạ lãi suất vào ngày tám tháng Năm vừa qua, khiến đồng Euro vọt tăng so với Mỹ kim. Khi hối suất Euro lên tới 1,17 Mỹ kim (bằng với giá phát hành năm xưa) thì ta thấy triệu chứng bất an bắt đầu, và một vụ điều chỉnh đột ngột có thể xảy ra nay mai, kể từ tháng Sáu này trở đi. Sở dĩ như vậy là vì kinh tế Âu châu ngày nay đang bị trì trệ nặng hơn kinh tế Mỹ và tiền Âu càng lên giá thì kinh tế càng suy sụp.
Kể về sức sản xuất, sản lượng kinh tế Âu châu được ước tính vào khoảng gần 16% tổng sản lượng toàn cầu, nhưng từ 1995 thì kinh tế Âu châu bị suy trầm, với tốc độ tăng trưởng chỉ ở khoảng 2,2% một năm; từ hai năm qua, tốc độ đó sụt mất nửa, bằng 1,1% và có thể chỉ còn 0,8% vào năm tới. So sánh với kinh tế Mỹ với tốc độ đã sút giảm vì vụ bể bóng đầu tư từ năm 2000, thì đà tăng trưởng của Âu châu chỉ bằng phân nửa, với tỷ lệ thất nghiệp cao từ gấp rưỡi tới gấp đôi. Nguy hại hơn vậy, sức mua của thị trường nội địa Âu châu cũng giảm (đà gia tăng chỉ bằng gần một phần ba của thời kỳ 1995-2000) và nền kinh tế này giờ đây trông cậy nhiều nhất vào thị trường bên ngoài, nghĩa là trông cậy vào xuất cảng. Mà muốn xuất cảng mạnh thì hàng Âu châu phải rẻ hơn, là điều khó xảy ra khi tiền Âu châu lại lên giá so với tiền Mỹ!
Chánh sách già nua
trong xã hội ách tắc
Nguyên nhân của nghịch lý này được thấy trong cơ cấu tiền tệ và chánh sách ngân hàng của Âu châu. Khi quyết định thống nhất tiền tệ, hai nước mạnh nhất Âu châu thời đó là Đức và Pháp đã đặt ra một luật chơi cho mọi thành viên, là duy trì ổn định tiền tệ để phát triển kinh tế. Cụ thể là không xứ nào được phép bội chi ngân sách quá 3% tổng sản lượng GDP và phải nghiêm ngặt canh chừng nguy cơ lạm phát. Ngày nay, kinh tế thế giới, nhất là kinh tế Âu-Mỹ-Nhật không bị đe dọa bởi nguy cơ lạm phát mà lại có thể bị nguy cơ trái ngược là giảm phát (hàng họ giảm giá mà bán không được, làm sản xuất suy sụp và thất nghiệp tăng, một mối nguy còn đáng sợ hơn lạm phát). Vậy mà như người lái xe cứ nhìn vào kính chiếu hậu ở đàng sau để đi tới đàng trước, Âu châu vẫn duy trì các biện pháp tài chánh lỗi thời, không cải tổ nổi chế độ hưu bổng và nhất là không hạ lãi suất ngân hàng. Điều đó khiến cho nhất thời tiền Âu lại cao giá hơn tiền Mỹ, và cản trở việc điều chỉnh tiền Mỹ một cách tiệm tiến trong khi làm kinh tế Âu châu khó vượt ra khỏi hố suy sụp. Cho đến khi Âu châu gặp nguy cơ giảm phát còn cao hơn Hoa Kỳ và bị đẩy tới chỗ phải lật đật hạ lãi suất, lúc đó, sóng gió sẽ xảy ra trên thị trường Âu châu và lây lan qua thị trường Á châu, làm thế giới lại trông cậy vào khả năng cấp cứu của kinh tế Mỹ. Nghĩa là lại ghét Mỹ thêm vì cần Mỹ hơn!
Nếu lại còn nhìn vào kinh tế Nhật Bản và hối suất giả tạo của đồng Nhân dân tệ Trung Quốc, người ta e rằng một vụ đột biến hối đoái vẫn có thể xảy ra, với hậu quả nguy kịch cho kinh tế Á châu còn hơn dịch Sars... là chuyện chúng ta sẽ tìm hiểu trong một dịp khác.
Gửi ý kiến của bạn