Việt Nam vẫn là nước sản xuất nhiều giầy dép, đã xuất cảng 1.5 tỷ mỹ kim hàng hoá trong năm ngoái, tăng 7% so với năm kia. Nhưng trong 4 tháng đầu năm nay, tình hình có vẻ không khá, Việt Nam chỉ xuất cảng 478.5 triệu mỹ kim, tức là chỉ tăng 0.3 phần trăm nếu tính cả năm.
Tất cả các nhà sản xuất giầy dép đều bị ảnh hưởng, nhưng những công ty quốc doanh bị nặng nhất. Mặc dầu họ sản xuất 1/3 lượng giầy dép, họ chỉ kiếm được 25% trong tổng số. Các công ty giầy dép tư nhân- dẫn đầu là hai công ty Bitis (tức Bình Tiên) và Hung Sang - chiếm 25% thị trường xuất cảng, và 54 công ty có vốn đầu tư ngoại quốc chiếm 54% còn lại.
Giới tiêu thụ ngoại quốc thích hàng hóa từ các công ty tư nhân hơn là của các công ty quốc doanh núp dưới bóng của Leaprodexim (Viet Nam Leather and Footwear Corp.). Những công ty con của Leaprodexim thường chịu sự quản trị yếu kém và máy móc cũ kỹ. Vì phẩm chất tồi tệ, Leaprodexim thường phải bán hàng hoá với giá rẻ mạt để câu khách, sau đó nhờ vào nhà nước để gỡ lại những số tiền lỗ lã.
Một mối lo sợ cho các công ty quốc doanh là sự xâm nhập của hàng hoá Trung cộng. Trung Hoa sắp sửa gia nhập tổ chức mậu dịch quốc tế, điều này sẽ giúp các công ty giầy dép dễ xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ hơn.
Trong khi đó, thương ước Việt Mỹ chưa được phê chuẩn và chỉ có lợi cho các công ty tư hữu. Tệ hơn nữa, Việt Nam nổi tiếng về giầy vải, trong khi đó thị hiếu bây giờ là giầy da. Việt Nam phải nhập cảng thêm da, phải tăng giá hàng hoá vì vậy khó lòng có thể cạnh tranh với Trung Quốc.
Leaprodexim chỉ còn cách hùn hạp với công ty ngoại quốc, một với Nam Hàn và hai với Đài Loan. Cả ba công ty con này đã đem về 12% trong tổng số 145 triệu mỹ kim hàng xuất cảng. Leaprodexim muốn tân trang máy móc nhưng không có tiền.
Nhà nước Cộng sản sẵn sàng cho Leaprodexim mượn vốn nhưng đặt ra những chỉ tiêu khó thực hiện, bao gồm cả việc phải tăng hàng xuất cảng gấp đôi vào năm 2005.