Hôm nay,  

Cuộc Hành Trình Đến Úc

28/07/200100:00:00(Xem: 5518)
Mùa đông lại đến, cảnh vật như chìm đắm trong mây mù ảm đạm, hai hàng cây bên đường trơ trọi cành khô, những lá chết đang vật mình tơi tả. Thời tiết giá lạnh. Đã ba hôm rồi trời vẫn chưa dứt cơn mưa. Cái lạnh như tràn vào căn nhà rộng đang thiếu bóng người thân. Cả nhà đều đi vắng, chỉ còn tôi. Ngồi tựa bên cửa sổ nhìn xuyên qua bầu trời đen thẫm, lắng nghe tiếng mưa rơi. Tự nhiên tôi cảm thấy lòng xao xuyến, nhớ quê hương Việt Nam năm nào cũng một ngày mưa to gió lớn, gia đình tôi đã âm thầm rời bỏ ngôi nhà êm ấm dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy gian lao nguy hiểm, bao lần suýt bỏ mình trên biển cả.

Năm ấy cách nay đã lâu lắm nhưng vì là bước ngoặt quan trọng thay đổi cả cuộc đời nên tôi không thể nào quên...

Cũng như tất cả quân nhân và viên chức miền Nam trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày 30 tháng tư năm 75, cha và chồng tôi cùng chịu chung số phận đi cải tạo. Mặc dù trước những ngày Sàigòn bị thất thủ gia đình tôi có điều kiện di tản vì tôi làm việc trong Tân Sơn Nhất. Nhưng lúc ấy tôi không liên lạc được với cha mẹ tôi, nên không biết tính mạng cha tôi ra sao, tôi không thể an tâm bỏ đi. Giờ đây thấy chồng phải chịu cảnh khổ sở tôi hết sức ân hận và quyết tìm đường trốn thoát CS. Chúng tôi vượt biên lần thứ nhất.

Chồng tôi liên lạc được với vài người bạn, khi họ báo tin có chuyến đi, phải rời nhà sáng sớm ngày mai. Chúng tôi đón xe đò xuống một tỉnh miền Tây, nghỉ tạm nhà một người bạn cùng đi chung trong lúc chồng tôi đi tìm chủ tàu. Đến 12 giờ khuya, anh trở lại và đưa gia đình chúng tôi xuống tàu. Đêm tối, trời mưa to gió lớn, tôi chẳng thấy gì, không biết đây là đâu, cứ lầm lũi theo chủ tàu hướng dẫn. Khi vào được trong tàu thì thấy rất đông đã sẵn sàng rồi. Có tất cả 45 người gồm lớn nhỏ. Tàu không lớn lắm nên chúng tôi phải ngồi bó gối lại để nhường chỗ cho trẻ con nằm.

Tàu bắt đầu rời sông, bên trong tàu hoàn toàn tối đen, không một ngọn đèn, chỉ có chủ tàu và thợ máy được dùng đèn bấm. Chủ tàu luôn nhắc nhở phải tuyệt đối im lặng, tất cả mọi người dường như không ai dám thở mạnh. Đang lúc tàu vượt qua trạm canh biên phòng, đứa con gái nhỏ của tôi vì quá sợ bóng tối bỗng khóc lên. Tôi hốt hoảng vội ôm chặt con vào lòng và bịt miệng lại. Cũng may, có lẽ đêm khuya lại mưa lớn nên công an biên phòng chắc ngủ say không nghe thấy, chúng tôi qua an toàn. Khi tàu ra được tới cửa biển, mọi người cùng thở phào nhẹ nhõm, rồi tàu nhẹ nhàng lướt sóng hướng ra hải phận quốc tế. Chúng tôi mừng rỡ thì thầm trò chuyện, chủ tàu cho biết chúng tôi có quyền nghỉ ngơi an giấc không còn phải hồi hộp nữa, chỉ cần ba ngày nữa là sẽ sang một vùng đất mới.

Qua hai ngày tàu chạy đều đặn hướng về phía một hòn đảo. Buổi tối đêm ấy tôi bước ra ngoài đứng trước mũi tàu định hóng gió cho bớt ngột ngạt. Nhìn lên bầu trời không một vì sao, nhìn xuống biển, trời và biển cùng một màu xanh thẳm (thường những chuyến vượt biên hay chọn những đêm không trăng tối trời để dễ bề trốn tránh trạm kiểm soát). Nhìn cảnh trời nước bao la ôi huyền bí làm sao. Tôi còn đang nhìn lên cố tìm vì sao Bắc Đẩu thì thình lình gió thổi mạnh, trời bắt đầu đổ hạt, tôi vội quay vào ôm các con lại. Rồi mưa lớn dần, gió thổi mạnh hơn, khoảng 10 phút sau sóng biển từ từ dâng lên cao. Bỗng nhiên một cơn sóng to như đang giận dữ gào thét đổ về phía hông tàu, làm tàu lắc lư, ngả nghiêng, rồi bất ngờ một làn sóng lớn ập vào. Lần đầu tiên thấy biển nổi trận cuồng phong tôi thấy con người thật nhỏ bé quá làm sao chống chọi nổi đây.

Thật vậy, nước tràn vô làm máy tàu không chạy được. Tất cả đều lo sợ và nhốn nháo lên vì sợ tàu có thể bị chìm. Trẻ con la khóc, phụ nữ kẻ thì lâm râm cầu Trời khấn Phật, người thì đọc kinh cầu Chúa Mẹ ban phép lành. Đàn ông bình tĩnh hơn, họ lo tát nước tìm phương cứu nguy. Người thợ máy tận lực sửa chữa máy tàu nhưng không kết quả. Lênh đênh một lúc lâu, chủ tàu quyết định để mặc tàu trôi theo chiều gió đẩy. Mặc dù đã đi được hơn nửa đoạn đường giờ bị bão đẩy ngược trở lại, càng ngày càng lùi dần. Sức bơi tay của các ông không thể vượt lên sức gió cản nên đành chấp nhận buông trôi. Vài người có kinh nghiệm đi biển cho rằng theo chiều gió này thì tàu sẽ quay về Việt Nam. Tất cả đồng ý trở về thà chịu ở tù để rồi tìm dịp khác còn hơn chết trên biển.

Ngày thứ ba, chúng tôi bắt đầu thấy đói, khát vì đồ ăn thức uống đã bị trộn lẫn với nước biển không dùng được. Trẻ con say sóng cộng với đói khát nằm la liệt. Chúng tôi phải dùng những tấm nylon căng ra để hứng nước mưa uống. Nước mắt rơi hòa lẫn với nước biển mặn đắng bờ môi và nghĩ rằng sự chết đang rình rập chúng tôi đâu đó.

Một đêm chúng tôi nhìn thấy dáng một chiếc tàu lớn ngoài khơi, cách chúng tôi khá xa. Chúng tôi xé chăn mền cột lên làm dấu hiệu cầu cứu, một số phụ nữ đứng trước mũi tàu cố gắng hét lên thật lớn, hy vọng tàu kia có thể nghe thấy và cứu vớt. Nhưng có lẽ vì chiếc tàu của chúng tôi quá nhỏ họ không thể nhìn thấy, hoặc là họ không muốn cứu... đã quay mũi đi về hướng khác để lại những tiếng kêu não nề tuyệt vọng trên biển rộng mênh mông. Nhìn con tàu khuất dạng chúng tôi chỉ còn chờ tử thần đến đón.

Lênh đênh như thế đến ngày thứ Năm thì tàu chúng tôi trôi trở lại biển Việt Nam, rồi từ từ vô sông. Lạ thay cũng gặp ngày mưa to như lúc khởi hành. May mắn không ai chết tuy mọi người đều kiệt sức.

Khi nhìn thấy bờ sông, tất cả đàn ông, đàn bà con gái độc thân, nhảy lên bờ tìm đường trốn. Còn lại vài người có con nhỏ không bỏ chạy được, trong đó có chồng tôi. Mặc dù tôi muốn anh chạy, nhưng tôi đã quá đuối sức và các con tôi gần ngất lịm, không đi được nữa. Tôi biết rằng nếu đàn ông bị bắt chắc chắn sẽ ở tù. Chúng tôi bị kẹt lại có hai người đàn ông, 2 bé trai và 5 phụ nữ. Chồng tôi cõng trên vai đứa nhỏ nhất, cặp nách đứa kế và tôi thì dìu đứa con gái 8 tuổi tay xách túi quần áo.

Chúng tôi lội theo bờ mương rạch tìm ra đất liền, gần suốt một buổi mà cứ loanh quanh ở đấy. Phần đói, khát, mệt, cuối cùng ngã quỵ giữa trời mưa không thể nào gượng nổi, cho đến khi công an biên phòng thấy bắt giải về đồn. Về tới đồn thì trời sẩm tối.

Tôi có giấu theo được ít vàng làm lộ phí, nhưng khi bị bắt thì họ đã khám xét và lấy hết không trừ một thứ gì ngoại trừ bộ quần áo ướt mặc trong người. Sáng hôm sau chúng tôi bị đưa về ty công an tỉnh. Tại đây, thêm một lần nữa chúng tôi bị hỏi cung về lý lịch cá nhân chi tiết về chuyến vượt biên, tên chủ tàu. Xong chúng tôi bị tống vào phòng giam, đàn ông ở riêng. Tôi và 3 con nhỏ và 5 phụ nữ ở chung phòng. Phòng giam hẹp lại đông người, đủ mọi thứ tội phạm, thiếu vệ sinh, làm các con tôi bệnh lại càng bệnh thêm. Mẹ con tôi được chia một khoảng xi măng vừa đủ để giăng một cái mùng, chúng tôi phải nằm co mới đủ chỗ. Đứa con nhỏ nhất 3 tuổi bị nước biển làm da bị sưng phồng như bị phỏng nay lại bị khô lại và lột ra nên rát nhức đau đớn, lại bị sốt vì cảm mà không có lấy một viên thuốc để uống. Nhìn con thơ nằm lăn lộn, rên siết lòng tôi đứt từng đoạn, nước mắt tôi tuôn tràn, tôi cảm thấy đau đớn như bị hàng ngàn mũi kim châm vào chính con tim mình.

Trong tù phần ăn mỗi bữa chỉ có một chén cho người lớn và nửa chén cho trẻ con. Tổng cộng bốn mẹ con tôi mỗi bữa lãnh được hai chén rưỡi cơm và nửa con ba khía mắm. Tôi phải nhịn đói uống nước cầm hơi để nhường cơm cho con mà con vẫn không đủ no. Một cô gái trẻ ở cùng phòng bị tội vượt biên đã hơn hai tháng, cô được người nhà tiếp tế, thấy mẹ con tôi đói cô liền nhường cho phần cơm của cô. Lúc đó một chén cơm nguội đối với chúng tôi thật vô cùng quý giá, hơn cả ngọc ngà châu báu.

Bốn ngày sau thì gia đình tôi biết tin nhờ những người chạy thoát về báo, sau đó đến thăm nuôi chúng tôi. Vì có con nhỏ nên tôi chỉ bị ở tù có hai tuần lễ là được thả cùng với hai người phụ nữ lớn tuổi khác. Ba cô gái trẻ và mấy người đàn ông cùng vượt biên với chúng tôi bị đưa đi lao động. Chồng tôi mãi tám tháng sau mới được về. Hai tuần lễ trong tù tôi cảm thấy như cả một thế kỷ, thật đúng là "nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại".

Vì khi ra đi tôi nhờ chị tôi trông nhà dùm, nên nhà cửa bình yên. Khi tôi được thả về, công an đến nhà tra xét, buộc tôi phải trả lời về sự vắng mặt của chồng tôi và cắt hộ khẩu của anh. Đến khi anh được thả về thì công an khu vực bắt anh phải đến trình diện mỗi tuần, phải đi làm thủy lợi mặc dù lúc đó anh không có hộ khẩu. Với sự quản chế khắt khe đó, anh nghĩ khó bề yên thân nên lại tính chuyện ra đi nữa.

Ít tháng sau cơ hội lại đến. Một người bạn đến tìm và rủ anh cùng đi. Bạn anh có tàu cần thêm người tin cậy phụ giúp. Thế là anh nhận lời. Riêng tôi, hình ảnh chết hụt và những ngày tù tội vừa qua hãy còn đậm nét trong lòng nên thú thực tôi không muốn đi nữa. Nhưng chồng tôi nói: "Phải đi hết gia đình. Có chết thì cùng chết". Vả lại bạn anh nói chuyến này tổ chức chu đáo vì bến bãi đã mua rồi.

Vượt biên lần thứ hai.

Chúng tôi rời nhà ra đi. Không hiểu sao có sự trùng hợp kỳ lạ, một cơn mưa trái mùa bất ngờ đổ xuống đúng vào lúc chúng tôi lên xe. Phải chăng đây là điềm xui xẻo. Chiều hôm ấy chúng tôi đến một làng quê ven sông gần giáp cửa biển. Tại đây tôi thấy có rất đông người, chia thành từng nhóm ở trong các nhà lân cận. Tất cả họ là khách vượt biên như chúng tôi. Chồng tôi và chủ tàu với một số người xuống trước.

Khoảng nửa đêm, những người còn lại được hướng dẫn xuống ghe nhỏ để ra tàu lớn. Khi ghe chuẩn bị tách bến, thình lình nhiều tiếng súng nổ vang, mọi người kinh hoàng chạy túa lên bờ tìm đường chạy trốn. Tôi xách túi hành lý và dắt 3 đứa con chạy theo. Trong đêm tối, hai bên bờ sông là rừng lau rậm rạp, một lúc không nhìn thấy gì, hai đứa con tôi rời tay mẹ và lạc mất. Đến khi nghe tiếng súng nổ sát trên đầu, đứa con nhỏ nhất đang bồng trên tay thét lên và rồi tôi té xuống, sau đó tôi bị công an bắt dẫn về đồn. Đến nơi tôi thấy lố nhố người, trong số đó có đứa con 5 tuổi của tôi, còn đứa con gái thì tôi chẳng thấy đâu. Vậy là con tôi đã đi lạc rồi! Tôi gào khóc xin thả ra để đi tìm con. Họ chẳng những không cho mà còn nạt nộ, mãi đến sáng, sau khi họ khám xét và tịch thu tất cả của cải mang theo của chúng tôi thì họ thả đàn bà con nít, còn đàn ông thì họ nhốt lại.

Đầu óc tôi giờ đây ngổn ngang trăm mối, con lạc nơi đâu" Chồng tôi ra sao" Cuối cùng tôi quyết định trở lại nơi bãi để tìm kiếm đứa con lạc. Tôi hỏi thăm thì được biết có một đứa nhỏ bị lạc và được người lái đò đem về nhà. Mừng quá, tôi vội chạy đi tìm người lái đò, tôi gặp lại con và hai mẹ con cùng òa khóc. Còn chồng tôi, sau khi những người ra sau bị bắt, chủ tàu biết đã bị phản bội nên vội vã nhổ neo. Chồng tôi không chịu đi vì không có vợ con. Chủ tàu bảo không thể chờ đợi được nữa, vì sẽ bị bắt hết. Khi tàu khởi hành, bất ngờ anh nhảy xuống sông lội vào bờ trở lại bến hỏi thăm tin tức. Hiểu được sự việc xảy ra, anh liền đón xe trở về nhà. Trưa hôm đó tôi cũng về đến nhà. Qua một đêm hãi hùng chẳng khác nào cơn ác mộng. Năm ngày sau tôi được tin chiếc tàu đã đến đảo Bidong. Tôi nghĩ phải chi chồng tôi đừng trở lại thì giờ đây anh thoát nạn rồi. Âu cũng là số mạng!

Lần thứ hai thất bại. Chúng tôi lại tiếp tục phiêu lưu thử thời vận. Một số người đi lần trước không được, liên kết lại với nhau tìm chủ tàu khác cũng đi tại địa phương đó, rồi cũng bị phản bội. Rồi cũng bị phản bội bị bắt, và bị gửi về công an trước. Nữ công an khám xét phụ nữ đã nhận ra tôi trừng mắt nói: "Cũng gặp bà này nữa, đi không được mà cứ đi hoài",. Bất giác tôi bật lên tiếng cười và không còn cảm thấy sợ gì cả. Lần này tôi ở tù một tuần lễ. Còn chồng tôi ở tù 3 tháng 20 ngày.

Sau ba lần thất bại anh không dám trở về nhà nữa, quyết định về quê một người bà con ẩn náu ở tận mũi Cà Mau với chí hướng cương quyết phải đi. Thời gian đó tôi sống ở nhà chịu trăm điều phiền lụy vì công an địa phương thẩm vấn, theo dõi muốn biết chồng tôi đang ở đâu" Tổ an ninh theo dõi những người lui tới nhà tôi. Trong hoàn cảnh như thế, tôi nhắn tin cho anh biết không thể nào đoàn tụ được. Cuối cùng anh cho biết hãy lo chuẩn bị một lần chót. Nếu không thành thì bỏ nhà cửa đi đến một nơi thật xa xôi sinh sống. Tôi âm thầm bán hết đồ đạc, tư trang còn lại, gom góp tiền bạc rồi cùng với người dì mua chiếc ghe để gia đình tổ chức đi. Sau sáu tháng sắp đặt, anh báo tin đến ngày khởi hành.

Gia đình tôi và đại gia đình người dì, tổng cộng 25 người lớn nhỏ. Lần này chúng tôi lo đầy đủ thức ăn, nước uống và những vật dụng cần thiết. Anh bà con tôi là dân vùng biển nên am tường, nơi nào có trạm kiểm soát, nơi nào cần trốn tránh... Anh tôi điều khiển chiếc tàu lớn với thành viên trong gia đình dì, phần chúng tôi ghe nhỏ riêng hẹn gặp nhau ở cửa sông lớn.

Chuyến đi này có em gái tôi phụ giúp đưa xuống tận bến đò vào một chiều mây đen vần vũ. Tôi lo ngại vì điềm trời mưa nên phân vân không muốn vô thuyền. Chồng tôi hối thúc xuống nhanh, em gái tôi thì sụt sùi nước mắt từ giã và chúc may mắn. Chúng tôi gạt lệ chia tay. Tôi còn nhớ trên đò anh chất đầy trái thơm, đầu đội nón lá giả làm dân đi buôn, các con tôi bị đẩy vào giữa rồi che kín lại. Ở xa nhìn vào chỉ thấy ghe chở khóm mà thôi. Khi qua trạm kiểm soát, công an nhìn thoáng qua rồi khoác tay cho đi.

Đêm đến chiếc đò ngang cập sát vào tàu lớn chuẩn bị nhảy lên, không may bị dòng nước mạnh đẩy ra, chiếc đò tròng trành rồi lật úp. Người anh họ vội nhảy xuống cứu con gái tôi, anh khác kéo tay thằng con trai, còn chồng tôi thì đỡ được tôi và đứa nhỏ. Bước đầu đã gặp không may, lên được tàu chúng tôi ướt hết nhưng hành lý được đưa lên tàu từ trước. Tàu di chuyển đến một khúc sông vắng để lấy nhiên liệu được giấu sẵn vì sợ bất trắc. Tàu bắt đầu ra khơi, còn một trạm canh cuối cùng, ai cũng nín thở hồi hộp, chỉ trừ có người anh họ là có vẻ bình tĩnh.

May mắn, chúng tôi qua cửa ải an lành. Sáng hôm sau ra đến cửa biển, chúng tôi nở nụ cười vui sướng và trò chuyện líu lo. Chưa được bao lâu thì niềm vui chợt tắt, chúng tôi thấy một chiếc tàu đánh cá treo cờ CSVN đang chạy đuổi theo. Khi tàu đánh cá đến gần, hai người Việt Nam bỏ dây qua chận kéo chúng tôi lại. Tất cả đồng thanh kêu lên: "Bị bắt nữa rồi!" Họ nhảy qua tàu chúng tôi, họ nói lớn:

- Có tiền bạc vòng vàng, hãy đưa cho chúng tôi thì được tiếp tục đi, bằng không chúng tôi kéo các anh trở về.

Chồng tôi nói nhỏ, ai có tiền Việt Nam thì đưa cho họ hết đi, ra đến đây rồi không cần nữa. Chúng tôi móc hết ra, đưa cho họ. Nhưng một người nói:

- Bây nhiêu đây không đủ tiền xăng nhớt đuổi theo các anh.

Dì tôi sợ họ kéo trở về sẽ bị tù mà đằng nào cũng mất hết nên lần mò trong người lấy ra một thỏi vàng đưa cho họ. Người thứ hai cầm lấy ngắm nghía như đánh giá về trọng lượng rồi đồng ý thả và chỉ hướng cho chúng tôi đi.

Sang ngày thứ hai tàu ra tới hải phận quốc tế. Bây giờ thì thật là hết sợ Việt Nam. Anh nói mọi người hãy ngủ để lấy lại sức sau mấy đêm vất vả vì lo âu, hy vọng ngày mai sẽ tới được Mã Lai.

Và đoạn đường gian nan chưa dứt. Một tai nạn kinh hoàng khác đến. Tối hôm đó chúng tôi thấy thấp thoáng từ xa 5 chiếc tàu khổng lồ đang chạy nhanh về phía chúng tôi. Thôi rồi, tàu hải tặc! Chúng tôi nghĩ vậy. Phen này thì chắc chắn là chết vì chúng tôi được nghe rất nhiều vì chuyện hải tặc cướp của, giết người, cưỡng hiếp man rợ.... Khi họ bao quanh chúng tôi, chúng tôi đồng loạt khóc rống lên, đàn bà vội lấy dầu nhớt bôi lên mặt và nằm sát xuống mạn tàu. Chúng lùa chúng tôi lên một trong 5 chiếc tàu của chúng, một số ở lại tàu lục soát lấy tất cả những gì có thể lấy được. Chúng bắt chúng tôi ngồi gom lại, một đứa ra dấu ý nói đừng sợ, chúng không làm gì hết chỉ lấy vàng, tiền mà thôi. Rồi chúng bắt đầu khám xét từng người. Dường như chúng đã quá quen việc khám xét, nên biết rõ nơi nào giấu tiền bạc. Một thằng trong bọn nhìn thằng cháu trai đội nón trên đầu, chúng giựt phăng xuống và xé toạc ra, không ngờ chị dâu tôi cuộn giấu 200 Mỹ kim lên lớp trong của vành nón mà nó biết được. Rồi chúng lại đạp bể nát khuôn hình của gia đình tôi lấy thêm được 200 đô nữa.

Gia đình dì tôi đi hết cả dâu rể, con cháu nên thu góp tài sản đổi thành tiền Mỹ và vàng mang theo bị chúng lấy sạch. Như có một phép lạ che chở, bọn chúng không làm hại ai, vì họ thực sự không phải là hải tặc, mà chỉ là dân đánh cá thuần túy muốn lấy tiền của thôi. Chúng tôi được bình an. Muôn vàn tạ ơn Thượng đế. Sau một lúc chúng thả chúng tôi trở lại tàu và bỏ đi. Nhưng khi chúng tôi chưa kịp hoàn hồn, còn đang run rẩy, bỗng nhiên một chiếc quay đầu lại, một nửa nhảy lên tàu chúng tôi. Chúng tôi sợ hãi chẳng hiểu chúng định làm gì. Hóa ra là chúng tiếc rẻ, trở lại kiểm soát thêm một lần nữa kỹ hơn. Nhưng chúng kiếm chẳng được thêm gì, chúng giận dữ quăng đồ đạc của chúng tôi xuống biển và trở về tàu, đẩy tàu chúng tôi ra khơi.

Chiếc tàu của chúng tôi giờ đây xơ xác như vừa trải qua một cơn bão tố, lòng ai nấy bàng hoàng chua xót, không ngăn nổi dòng lệ. Có lẽ lúc chúng quay lại quá mạnh nên tàu chúng tôi bị đụng vào đâu đó lủng một lỗ, nước biển lọt vào. Lại thêm một lần nữa thất kinh, họa vô đơn chí, chẳng lẽ mạng chúng tôi đã tận cùng rồi sao" Đàn ông ra sức lo tát nước và trám lỗ thủng. Sau cùng thì cũng tai qua.

Sang ngày thứ ba, buổi chiều thì tàu đến hải phận Mã Lai. Chúng tôi đến gần hỏi thăm và được hướng dẫn để đến đảo Bidong. Họ cho biết ở đó Việt Nam đông lắm. Chúng tôi cảm ơn và trực chỉ về phía đảo. Tàu tới đất liền vào khoảng 5 giờ chiều. Từ khi rời Việt Nam đến lúc lên bờ chỉ có mất 3 ngày 3 đêm mà chúng tôi đã trải qua không biết bao là sự kinh hoàng, cốt chỉ tìm hai chữ Tự Do. Bây giờ thì chúng tôi mới thật sự nghĩ mình còn sống. Hành trang của chúng tôi giờ đây là hai bàn tay trắng và bộ quần áo mặc trên người. Thế nhưng chúng tôi đã khóc ngon lành vì sung sướng. Giấc mơ đã thành sự thật, không có gì vui hơn. Chúng tôi được đồng bào trên đảo ra đón mừng, thăm hỏi. Ngày chúng tôi lên đảo, đúng dịp có phái đoàn Cao Ủy LHQ đến thăm. Nghe kể sơ qua sự việc xảy ra trên biển chúng tôi được đặc biệt ưu tiên phát cho mỗi người một bộ đồ mới ngay tại chỗ.

Và cũng được ưu tiên phỏng vấn. Phái đoàn Mỹ chấp nhận ngay cho định cư tại Hoa Kỳ, nhưng chồng tôi xin đi Úc và được phái đoàn Úc chấp thuận. Chúng tôi ở Bidong 25 ngày thì được chuyển sang đất liền chờ ngày đi định cư. Thời gian ở đảo một hôm tôi thấy có chiếc tàu vượt biên cập bến. Nhìn những người lên bờ đều có chung một nét mặt phảng phất ưu sầu sợ hãi. Hỏi ra mới biết họ gặp tàu hải tặc. Một cô gái trẻ nhìn dáng dấp tơi tả ủ dột, đôi mắt chan hòa đẫm lệ biểu lộ sự đau khổ tột cùng. Cô bị cưỡng hiếp trong khi người chồng mới cưới của cô bị đá văng xuống biển vì muốn bảo vệ cô.

Đêm đêm tôi thấy cô ngồi than khóc một mình trên bãi vắng rất thương tâm. Tôi cảm thấy xót xa và lo lắng cho tương lai của cô và thầm nghĩ không biết còn bao nhiêu thiếu nữ Việt Nam bị vùi dập tuổi thanh xuân trong tay bọn hải tặc" Rồi tôi thầm tạ ơn Thượng Đế đã che chở vì chúng tôi bị 5 chiếc tàu Thái Lan mà được bình an...

Gia đình tôi đến Úc vào một sáng mùa đông khi sương mù còn giăng kín cả không gian. Thấm thoát đã mười mấy năm rồi. Thời gian trôi nhanh với bao biến đổi nhưng tôi không bao giờ quên được những gì đã xẩy ra trong cuộc hành trình đó. Và cứ độ sang đông, ký ức tôi bừng sống lại hình ảnh vượt biên năm nào, nhất là vào những đêm mưa bão như hôm nay.

Bây giờ thì gia đình chúng tôi đã hoàn toàn an cư lạc nghiệp. Các con tôi đã hoàn thành con đường học vấn, đóng góp công sức vào xã hội, quê hương mới, nơi đã cưu mang đón nhận gia đình tôi. Tuy các con tôi lớn lên trên đất Úc nhưng tôi luôn luôn giáo dục chúng phải duy trì truyền thống người Việt. Phải sống đúng nghĩa một công dân Úc gốc Việt. Khi các con tôi còn ở tuổi đi học, trong mỗi buổi cơm chiều, gia đình chúng tôi quây quần bên bàn ăn, tôi thường kể lại câu chuyện vượt biên ngày xưa để làm sống lại tuổi thơ ấu của chúng. Tôi nhắc chúng phải biết ơn xứ sở này và cũng không được quên nguồn gốc của mình, là người Việt Nam. Và chúng tôi cũng không quên nhắc nhở cho chúng biết còn bao nhiêu người thân đang ở lại quê nhà, sống thiếu may mắn và khao khát tự do.

Tôi còn nhớ có một lần trong giờ học Anh ngữ, nhân buổi thảo luận về đề tài lý do tại sao bạn có mặt nơi đây" tôi đã thuật lại cuộc hành trình gian khổ của chúng tôi. Nghe xong, ai nấy đều ồ lên ngạc nhiên và họ không thể tưởng được rằng người tỵ nạn Việt Nam phải trả một giá quá đắt để đến được bến bờ tự do.

Phương Thảo - Vic

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Sky River Casino vô cùng vui mừng hào hứng tổ chức chương trình Ăn Tết Nguyên Đán với những giải thưởng thật lớn cho các hội viên Sky River Rewards. Chúng tôi cũng xin kính chúc tất cả Quý Vị được nhiều may mắn và một Năm Giáp Thìn thịnh vượng! Trong dịp đón mừng Năm Mới Âm Lịch năm nay, 'Đội Múa Rồng và Lân Bạch Hạc Leung's White Crane Dragon and Lion Dance Association' đã thực hiện một buổi biểu diễn Múa Lân hào hứng tuyệt vời ở Sky River Casino vào lúc 11:00 AM ngày 11 Tháng Hai. Mọi người tin tưởng rằng những ai tới xem múa lân sẽ được hưởng hạnh vận.
Theo một nghiên cứu mới, có hơn một nửa số hồ lớn trên thế giới đã bị thu hẹp kể từ đầu những năm 1990, chủ yếu là do biến đổi khí hậu, làm gia tăng mối lo ngại về nước cho nông nghiệp, thủy điện và nhu cầu của con người, theo trang Reuters đưa tin vào 8 tháng 5 năm 2023.
(Tin VOA) - Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) vào ngày 13/9 ra thông cáo lên án Việt Nam tiếp tục lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt những án tù nặng nề với mục tiêu loại trừ mọi tiếng nói chỉ trích của giới ký giả. Trường hợp nhà báo tự do mới nhất bị kết án là ông Lê Anh Hùng với bản án năm năm tù. RSF bày tỏ nỗi kinh sợ về bản án đưa ra trong một phiên tòa thầm lặng xét xử ông Lê Anh Hùng hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua. Ông này bị kết án với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước’ theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự Việt Nam
Từ đầu tuần đến nay, cuộc tấn công thần tốc của Ukraine ở phía đông bắc đã khiến quân Nga phải rút lui trong hỗn loạn và mở rộng chiến trường thêm hàng trăm dặm, lấy lại một phần lãnh thổ khu vực đông bắc Kharkiv, quân đội Ukraine giờ đây đã có được vị thế để thực hiện tấn công vào Donbas, lãnh phổ phía đông gồm các vùng công nghiệp mà tổng thống Nga Putin coi là trọng tâm trong cuộc chiến của mình.
Tuần qua, Nước Mỹ chính thức đưa giới tính thứ ba vào thẻ thông hành. Công dân Hoa Kỳ giờ đây có thể chọn đánh dấu giới tính trên sổ thông hành là M (nam), F (nữ) hay X (giới tính khác).
Sau hành động phản đối quả cảm của cô trên truyền hình Nga, nữ phóng viên (nhà báo) Marina Ovsyannikova đã kêu gọi đồng hương của cô hãy đứng lên chống lại cuộc xâm lược Ukraine. Ovsyannikova cho biết trong một cuộc phỏng vấn với "kênh truyền hình Mỹ ABC" hôm Chủ nhật: “Đây là những thời điểm rất đen tối và rất khó khăn và bất kỳ ai có lập trường công dân và muốn lập trường đó được lắng nghe cần phải nói lên tiếng nói của họ”.
Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam cử hành Ngày Quốc tế Nhân Quyền Lần Thứ 73 và Lễ Trao Giải Nhân Quyền Việt Nam lần thứ 20.
Sau hơn 30 năm Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhân dân Nga và khối các nước Đông Âu đã được hưởng những chế độ dân chủ, tự do. Ngược lại, bằng chính sách cai trị độc tài và độc đảng, Đảng CSVN đã dùng bạo lực và súng đạn của Quân đội và Công an để bao vây dân chủ và đàn áp tự do ở Việt Nam. Trích dẫn chính những phát biểu của giới lãnh đạo Việt Nam, tác giả Phạm Trần đưa ra những nhận định rất bi quan về tương lai đất nước, mà hiểm họa lớn nhất có lẽ là càng ngày càng nằm gọn trong tay Trung quốc. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Tác giả Bảo Giang ghi nhận: “Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập." Tại sao vậy? Để có câu trả lời, mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của nhà văn Tưởng Năng Tiến.
Người cộng sản là những “kịch sĩ” rất “tài”, nhưng những “tài năng kịch nghệ” đó lại vô phúc nhận những “vai kịch” vụng về từ những “đạo diễn chính trị” yếu kém. – Nguyễn Ngọc Già (RFA).. Mời bạn đọc vào đọc bài viết dưới đây của phó thường dân/ nhà văn Tưởng Năng Tiến để nhìn thấy thêm chân diện của người cộng sản.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.