LTS: Tiếp theo loạt bài Tưởng niệm 30-4, VB giới thiệu đến bạn đọc những tài liệu đặc biệt liên quan đến các sự kiện quân sự, chính trị giưã VNCH và Hoa Kỳ, đã được Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại Hoa Kỳ giải mật và chuyển giao cho Văn Khố Quốc gia Hoa Kỳ.
* Những trận pháo chiến và kế hoạch an ninh trong căn cứ Khe Sanh trước Tết Mậu Thân.
Như đã trình bày, trước những diễn biến về tình hình quanh khu vực Khe Sanh trong tháng 1/1968, Đại tướng Westmoreland, Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam (1964-1968), đã hội ý với Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH quyết định giữ căn cứ Khe Sanh bằng mọi giá. Sau đây là những ghi nhận của Đại tướng Westmoreland về tình hình Khe Sanh trong Tết Mậu Thân 1968.
Theo ghi nhận của Đại tướng Westmoreland, tuần lễ cuối cùng trước tết Mậu Thân, Cộng quân vẫn gia tăng áp lưc quanh căn cứ bằng các đợt pháo kích không ngừng, điều này đã gây khó khăn cho việc sửa chữa phi đạo. Vừa phải lo kề hoạch phản pháo và chống trả đẩy lùi các cuộc tấn công của địch quân, bộ chỉ huy căn cứ Khe Sanh còn phải lo vấn đề di tản dân tị nạn. Sau đợt di tản bằng không vận trong ngày 22/1/1968, căn cứ Khe Sanh còn tiếp nhận thêm nhiều dân chạy giặc từ các làng ở gần Khe Sanh đến xin lánh nạn. Để đề phòng Cộng quân trà trộn, tất cả các dân tị nạn khi vào căn cứ đều phải chịu kiểm tra lục soát để tìm các vũ khí cất giấu hoặc các loại dụng cụ phá hoại.
Để tạo điều kiện cho các toán Công binh sửa chữa phi đạo dễ dàng hoạt động và để triệt tiêu các cuộc bắn phá của Cộng quân, lực lượng Không quân và Pháo binh Hoa Kỳ đã hỏa tập không ngừng vào các vị trí mà Cộng quân đang bố trí lực lượng. Chính nhờ sự yểm trợ này mà Cộng quân không thể gia tăng áp lực được. Trong thời gian phi đạo được sửa chữa, các loại máy bay nhỏ vẫn có thể lên xuống được và cho đến cuối tuần thì việc sửa chữa phi đạo hoàn tất để phi cơ hạng nặng có thể đáp xuống được. Tiếp liệu được chuyển vận đầy đủ với hệ thống không vận gồm những chiếc C 130 và trực thăng vận tải.
* 3 sư đoàn CSBV khai triển lực lượng quanh Khe Sanh mở trận chiến Mậu Thân
Ngày 23 tháng 1/1968, Cộng quân mở đợt tập trung quân với quân số lớn nhất chưa từng có tại chiến trường này. Sư đoàn 325 và sư đoàn 304 CSBV từ hướng Đông Bắc cách căn cứ khoảng 24 km, còn có thêm sư đoàn 320 CSBV bao vây quanh căn cứ Carroll, nhiệm vụ của sư đoàn CSBV này là khống chế đường dây tiếp liệu chính bằng không vận được chuyển tiếp từ căn cứ này để phân phối cho các đơn vị TQLC tại Khe Sanh. Theo báo cáo của các phi cơ quan sát, lực lượng
Cộng quân tham chiến tại Khe Sanh đã được trang bị đầy đủ các loại đại pháo và phòng không, các cụm hỏa lực được phối trí dày dặc quanh trận địa, những vị trí của CQ ở gần căn cứ nhất đang được xây dựng thêm nhiều giao thông hào và công sự để sử dụng cho một cuộc tấn công cường tập với nhiều xe tăng yểm trợ.
Ngày 25 tháng 1/1968, sương mù kéo đến trải dài từ nửa phía Tây Quảng Trị đến Hạ Lào. Trong ngày này, Khe Sanh đã trở thành một mục tiêu pháo kích dữ dội nhất của Cộng quân kể từ khi trận chiến bùng nổ. Các khẩu đại pháo Nga 152 ly đặt tại khu phi quân sự đã pháo kích liên tục không ngừng vào căn cứ. Tận dụng sương mù và các đợt pháo kích, Cộng quân nhích dần từng chút giữa khoảng cách 400 mét dẫn đến phi đạo của căn cứ. Từ các vị trí vừa nhích lên được, Cộng quân đã gia tăng pháo kích và đào hầm hố theo kiểu con ếch để có thể tấn công Khe Sanh bất cứ lúc nào.Trong ngày này, Khe Sanh trở thành mục tiêu cho các trận pháo kích dữ dội nhất của Cộng quân. Tận dụng yếu tố sương mù và các trận hỏa tập, Cộng quân đã nhích dần từng chút giữa khoảng cách 400 mét dẫn đến phi đạo. Trước tình hình mới của chiến trường, theo lời yêu cầu của Đại tướng Westmoreland, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1/QL.VNCH đã khẩn cấp điều động Tiểu đoàn 37 Biệt động quâm thuộc liên đoàn 1 Biệt động quân để tăng viện cho chiến trường Khe Sanh.
* Trận chiến Khe Sanh trong Tết Mậu Thân
Bước vào tháng 2/1968, trận chiến tại Khe Sanh trở nên khốc liệt hơn. Vào đầu tháng 2/1968 (mồng ba Tết Mậu Thân), Cộng quân đã tăng cường thêm 1 sư đoàn và 3 trung đoàn cơ động, 1 trung đoàn pháo phòng không. Theo ước tính của các cơ quan tình báo liên quân Việt-Mỹ, quân số tham chiến của Cộng quân tại chiến trường Khe Sanh vào lúc đó đã lên đến khoảng 50 ngàn quân, trong đó 4/5 là lực lượng chính quy CSBV.
Từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 2/1968 (mồng 3 đến mồng 7 tháng Giêng Mậu Thân), Cộng quân liên tục gây áp lực bằng các đợt pháo kích vào các trọng điểm trong căn cứ trong đó phi đạo là một mục tiêu chính. Thông thường, các căn hầm chỉ huy của các đơn vị quân trú phòng đều cắm những trụ dây trời để liên lạc truyền tin, do đó Cộng quân thường nhắm vào đây như một điểm chuẩn để pháo kích. Tương kế tựu kế, Đại tá Lowds-trung đoàn trưởng trung đoàn 26 TQLC kiêm chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh đã cho cắm tên từng hầm trú ẩn một cột dây trời cao khiến cho Cộng quân lúng túng khi pháo vào căn cứ.
Ngày 5 tháng 2/1968, 2 tiểu đoàn Cộng quân mở đợt tấn công vào đồi 861 A, nhưng đã bị quân trú phòng và hỏa pháo, không pháo gây tổn thất nặng, Cộng quân phải rút lui.
Nửa đêm ngày 6 rạng ngày 7/2/1968, Cộng quân sử dụng một biệt đội thiết vận xa PT 76 của Nga chế tạo có bộ binh tùng thiết và 1 trung đoàn chủ lực tấn công vào trại Lực lượng Đặc biệt tại Làng Vei, gần căn cứ Khe Sanh. Trại này do Đại úy Frank C. Willoughby chỉ huy gồm 1 phân đội Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ 24 người và khoảng 200 Dân sự Chiến đấu (Biệt kích quân biên phòng) phần lớn là dân thiểu số miền núi tỉnh Quảng Trị. Ngày 7/2/1968, trại này bị tràn ngập bởi lực lượng Cộng quân, một số đông binh sĩ và cố vấn do Đại úy Frank C. chỉ huy phải rút ra ngoài.Khi tấn công vào trại này, một số chiến xa của Cộng quân bị bắn cháy, số còn lại đã tràn vào trại cùng với bộ binh của Cộng quân. Dân cư gần Làng Vei đã ùa chạy về phía căn cứ Khe Sanh, trong số đó có cả những người lính Biệt kích quân biên phòng của trại Lực lượng Đặc biệt cùng rút về. Sự việc trại Làng Vei thất thủ làm cho căn cứ phải nhận thêm nhân số khiến số người trong căn cứ đã đông lại càng đông thêm, điều này đã gây khó khăn cho việc phòng thủ chống pháo kích và an ninh trong căn cứ.
Để đề phòng Cộng quân trà trộn, theo lệnh của Bộ chỉ huy Căn cứ, lính Dân sự Chiến đấu phải tập hợp ngoài căn cứ và bị thu hồi võ khí, sau khi toán Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ có thể kiểm soát được quân số thì họ mới được vào trại. Dù vậy cũng có một số Cộng quân trà trộn vào được với lính Dân sự chiến đấu của trại Lực lượng Đặc biệt, nhưng số Cộng quân đã bị phát hiện ngay sau đó và bị bắt giữ.
Trong đêm trại Làng Vei bị Cộng quân chiếm cứ, sĩ quan trung tâm trưởng Trung tâm hành quân tác chiến của bộ tư lịnh Quân đội Mỹ tại VN đã hai lần đánh thức Đại tướng Westmoreland để báo cáo (vị tướng này đã đem ghế bố vào ngay trung tâm hành quân ngủ trong suốt thời gian xảy ra trận chiến Khe Sanh).
Khi Cộng quân tấn công vào trại Làng Vei, Đại tá Jonathan Ladd, chỉ huy Lực lượng 5 Đặc biệt Hoa Kỳ đã yêu cầu quân tiếp viện đến giải cứu trại này. Theo kế hoạch đã được định trước, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đóng tại Khe Sanh sẽ phái đơn vị đi giải cứu Làng Vei nếu trại này bị khốn đốn nhưng đã hai lần Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại đây đã từ chối không chịu đi cứu viện. Các cấp chỉ huy của lực lượng trú phòng Khe Sanh nói rằng nếu đi cứu viện bằng đường bộ thì sẽ bị phục kích, còn nếu dùng trực thăng để giải vây thì sợ bắn trúng nhằm quân bạn.
Trong ngày 7/2/1968, Đại tướng Westmoreland bay ra Đà Nẵng và mở ngay cuộc họp với các chỉ huy Lục quân và Thủy quân lục chiến tại Vùng 1 chiến thuật. Ông đã chỉ thị cho Trung tướng Cushman, Tư lịnh Lực lượng 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, điều động ngay trực thăng chở một đội quân đang đồn trú tại Khe Sanh đi giải cứu trước khi trại này bị Cộng quân tràn ngập. Đội giải cứu đã cứu được 14 quân nhân Mỹ trong trại Làng Vei, 10 người còn lại đã bị tử thương.Ngày 8/2/1968, có thêm khoảng 3 ngàn dân làng gần khu Làng Vei trong đó có cả một số dân thuộc bộ lạc Cả của Lào, xin vào tị nạn tại Khe Sanh. Đại tá Lownds, chỉ huy căn cứ Khe Sanh phải tổ chức hành quân giải tỏa quốc lộ 9 để đưa họ về tạm cư tại quận lỵ Cam Lộ, cách Khe Sanh khoảng 40 km đường chim bay.
Đêm 9 tháng 2/1968, Tiểu đoàn 1/9 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ bị tấn công bất ngờ tại tiền đồn hầm đá ngoài căn cứ. Quân trú phòng phải rút về phòng tuyến trong và rạng sáng ngày 10/2/1968, tiểu đoàn 1/9 tái chiếm lại cứ điểm. Trong cuộc giao tranh này phía Cộng quân bỏ lại 200 xác chết trên trận địa, phía TQLC Hoa Kỳ có 21 quân nhân tử trận.Việc tiếp tế cho quân trú phòng đã gặp khó khăn. Các vận tải cơ C-130 đáp xuống phi đạo trở thành mục tiêu của các họng pháo Cộng quân cứ nhắm vào sân bay. Ngày 11 tháng 2/1968, Cộng quân gia tăng pháo kích vào phi đạo, 2 vận tải cơ C-130 bị trúng đạn pháo, 1 bốc cháy trên phi đạo, 6 người trong phi hành đoàn chết. Chiếc thứ 2 phải rời ngay phi đạo với hàng trăm lỗ trên sàn tàu bị đạn. Cơ khí trưởng của vận tải cơ này đã phải dùng đến tay chân thay thế cho máy móc để phi cơ có thể bay về Đà Nẵng an toàn.
* Những trận pháo chiến và kế hoạch an ninh trong căn cứ Khe Sanh trước Tết Mậu Thân.
Như đã trình bày, trước những diễn biến về tình hình quanh khu vực Khe Sanh trong tháng 1/1968, Đại tướng Westmoreland, Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam (1964-1968), đã hội ý với Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH quyết định giữ căn cứ Khe Sanh bằng mọi giá. Sau đây là những ghi nhận của Đại tướng Westmoreland về tình hình Khe Sanh trong Tết Mậu Thân 1968.
Theo ghi nhận của Đại tướng Westmoreland, tuần lễ cuối cùng trước tết Mậu Thân, Cộng quân vẫn gia tăng áp lưc quanh căn cứ bằng các đợt pháo kích không ngừng, điều này đã gây khó khăn cho việc sửa chữa phi đạo. Vừa phải lo kề hoạch phản pháo và chống trả đẩy lùi các cuộc tấn công của địch quân, bộ chỉ huy căn cứ Khe Sanh còn phải lo vấn đề di tản dân tị nạn. Sau đợt di tản bằng không vận trong ngày 22/1/1968, căn cứ Khe Sanh còn tiếp nhận thêm nhiều dân chạy giặc từ các làng ở gần Khe Sanh đến xin lánh nạn. Để đề phòng Cộng quân trà trộn, tất cả các dân tị nạn khi vào căn cứ đều phải chịu kiểm tra lục soát để tìm các vũ khí cất giấu hoặc các loại dụng cụ phá hoại.
Để tạo điều kiện cho các toán Công binh sửa chữa phi đạo dễ dàng hoạt động và để triệt tiêu các cuộc bắn phá của Cộng quân, lực lượng Không quân và Pháo binh Hoa Kỳ đã hỏa tập không ngừng vào các vị trí mà Cộng quân đang bố trí lực lượng. Chính nhờ sự yểm trợ này mà Cộng quân không thể gia tăng áp lực được. Trong thời gian phi đạo được sửa chữa, các loại máy bay nhỏ vẫn có thể lên xuống được và cho đến cuối tuần thì việc sửa chữa phi đạo hoàn tất để phi cơ hạng nặng có thể đáp xuống được. Tiếp liệu được chuyển vận đầy đủ với hệ thống không vận gồm những chiếc C 130 và trực thăng vận tải.
* 3 sư đoàn CSBV khai triển lực lượng quanh Khe Sanh mở trận chiến Mậu Thân
Ngày 23 tháng 1/1968, Cộng quân mở đợt tập trung quân với quân số lớn nhất chưa từng có tại chiến trường này. Sư đoàn 325 và sư đoàn 304 CSBV từ hướng Đông Bắc cách căn cứ khoảng 24 km, còn có thêm sư đoàn 320 CSBV bao vây quanh căn cứ Carroll, nhiệm vụ của sư đoàn CSBV này là khống chế đường dây tiếp liệu chính bằng không vận được chuyển tiếp từ căn cứ này để phân phối cho các đơn vị TQLC tại Khe Sanh. Theo báo cáo của các phi cơ quan sát, lực lượng
Cộng quân tham chiến tại Khe Sanh đã được trang bị đầy đủ các loại đại pháo và phòng không, các cụm hỏa lực được phối trí dày dặc quanh trận địa, những vị trí của CQ ở gần căn cứ nhất đang được xây dựng thêm nhiều giao thông hào và công sự để sử dụng cho một cuộc tấn công cường tập với nhiều xe tăng yểm trợ.
Ngày 25 tháng 1/1968, sương mù kéo đến trải dài từ nửa phía Tây Quảng Trị đến Hạ Lào. Trong ngày này, Khe Sanh đã trở thành một mục tiêu pháo kích dữ dội nhất của Cộng quân kể từ khi trận chiến bùng nổ. Các khẩu đại pháo Nga 152 ly đặt tại khu phi quân sự đã pháo kích liên tục không ngừng vào căn cứ. Tận dụng sương mù và các đợt pháo kích, Cộng quân nhích dần từng chút giữa khoảng cách 400 mét dẫn đến phi đạo của căn cứ. Từ các vị trí vừa nhích lên được, Cộng quân đã gia tăng pháo kích và đào hầm hố theo kiểu con ếch để có thể tấn công Khe Sanh bất cứ lúc nào.Trong ngày này, Khe Sanh trở thành mục tiêu cho các trận pháo kích dữ dội nhất của Cộng quân. Tận dụng yếu tố sương mù và các trận hỏa tập, Cộng quân đã nhích dần từng chút giữa khoảng cách 400 mét dẫn đến phi đạo. Trước tình hình mới của chiến trường, theo lời yêu cầu của Đại tướng Westmoreland, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1/QL.VNCH đã khẩn cấp điều động Tiểu đoàn 37 Biệt động quâm thuộc liên đoàn 1 Biệt động quân để tăng viện cho chiến trường Khe Sanh.
* Trận chiến Khe Sanh trong Tết Mậu Thân
Bước vào tháng 2/1968, trận chiến tại Khe Sanh trở nên khốc liệt hơn. Vào đầu tháng 2/1968 (mồng ba Tết Mậu Thân), Cộng quân đã tăng cường thêm 1 sư đoàn và 3 trung đoàn cơ động, 1 trung đoàn pháo phòng không. Theo ước tính của các cơ quan tình báo liên quân Việt-Mỹ, quân số tham chiến của Cộng quân tại chiến trường Khe Sanh vào lúc đó đã lên đến khoảng 50 ngàn quân, trong đó 4/5 là lực lượng chính quy CSBV.
Từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 2/1968 (mồng 3 đến mồng 7 tháng Giêng Mậu Thân), Cộng quân liên tục gây áp lực bằng các đợt pháo kích vào các trọng điểm trong căn cứ trong đó phi đạo là một mục tiêu chính. Thông thường, các căn hầm chỉ huy của các đơn vị quân trú phòng đều cắm những trụ dây trời để liên lạc truyền tin, do đó Cộng quân thường nhắm vào đây như một điểm chuẩn để pháo kích. Tương kế tựu kế, Đại tá Lowds-trung đoàn trưởng trung đoàn 26 TQLC kiêm chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh đã cho cắm tên từng hầm trú ẩn một cột dây trời cao khiến cho Cộng quân lúng túng khi pháo vào căn cứ.
Ngày 5 tháng 2/1968, 2 tiểu đoàn Cộng quân mở đợt tấn công vào đồi 861 A, nhưng đã bị quân trú phòng và hỏa pháo, không pháo gây tổn thất nặng, Cộng quân phải rút lui.
Nửa đêm ngày 6 rạng ngày 7/2/1968, Cộng quân sử dụng một biệt đội thiết vận xa PT 76 của Nga chế tạo có bộ binh tùng thiết và 1 trung đoàn chủ lực tấn công vào trại Lực lượng Đặc biệt tại Làng Vei, gần căn cứ Khe Sanh. Trại này do Đại úy Frank C. Willoughby chỉ huy gồm 1 phân đội Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ 24 người và khoảng 200 Dân sự Chiến đấu (Biệt kích quân biên phòng) phần lớn là dân thiểu số miền núi tỉnh Quảng Trị. Ngày 7/2/1968, trại này bị tràn ngập bởi lực lượng Cộng quân, một số đông binh sĩ và cố vấn do Đại úy Frank C. chỉ huy phải rút ra ngoài.Khi tấn công vào trại này, một số chiến xa của Cộng quân bị bắn cháy, số còn lại đã tràn vào trại cùng với bộ binh của Cộng quân. Dân cư gần Làng Vei đã ùa chạy về phía căn cứ Khe Sanh, trong số đó có cả những người lính Biệt kích quân biên phòng của trại Lực lượng Đặc biệt cùng rút về. Sự việc trại Làng Vei thất thủ làm cho căn cứ phải nhận thêm nhân số khiến số người trong căn cứ đã đông lại càng đông thêm, điều này đã gây khó khăn cho việc phòng thủ chống pháo kích và an ninh trong căn cứ.
Để đề phòng Cộng quân trà trộn, theo lệnh của Bộ chỉ huy Căn cứ, lính Dân sự Chiến đấu phải tập hợp ngoài căn cứ và bị thu hồi võ khí, sau khi toán Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ có thể kiểm soát được quân số thì họ mới được vào trại. Dù vậy cũng có một số Cộng quân trà trộn vào được với lính Dân sự chiến đấu của trại Lực lượng Đặc biệt, nhưng số Cộng quân đã bị phát hiện ngay sau đó và bị bắt giữ.
Trong đêm trại Làng Vei bị Cộng quân chiếm cứ, sĩ quan trung tâm trưởng Trung tâm hành quân tác chiến của bộ tư lịnh Quân đội Mỹ tại VN đã hai lần đánh thức Đại tướng Westmoreland để báo cáo (vị tướng này đã đem ghế bố vào ngay trung tâm hành quân ngủ trong suốt thời gian xảy ra trận chiến Khe Sanh).
Khi Cộng quân tấn công vào trại Làng Vei, Đại tá Jonathan Ladd, chỉ huy Lực lượng 5 Đặc biệt Hoa Kỳ đã yêu cầu quân tiếp viện đến giải cứu trại này. Theo kế hoạch đã được định trước, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đóng tại Khe Sanh sẽ phái đơn vị đi giải cứu Làng Vei nếu trại này bị khốn đốn nhưng đã hai lần Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tại đây đã từ chối không chịu đi cứu viện. Các cấp chỉ huy của lực lượng trú phòng Khe Sanh nói rằng nếu đi cứu viện bằng đường bộ thì sẽ bị phục kích, còn nếu dùng trực thăng để giải vây thì sợ bắn trúng nhằm quân bạn.
Trong ngày 7/2/1968, Đại tướng Westmoreland bay ra Đà Nẵng và mở ngay cuộc họp với các chỉ huy Lục quân và Thủy quân lục chiến tại Vùng 1 chiến thuật. Ông đã chỉ thị cho Trung tướng Cushman, Tư lịnh Lực lượng 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, điều động ngay trực thăng chở một đội quân đang đồn trú tại Khe Sanh đi giải cứu trước khi trại này bị Cộng quân tràn ngập. Đội giải cứu đã cứu được 14 quân nhân Mỹ trong trại Làng Vei, 10 người còn lại đã bị tử thương.Ngày 8/2/1968, có thêm khoảng 3 ngàn dân làng gần khu Làng Vei trong đó có cả một số dân thuộc bộ lạc Cả của Lào, xin vào tị nạn tại Khe Sanh. Đại tá Lownds, chỉ huy căn cứ Khe Sanh phải tổ chức hành quân giải tỏa quốc lộ 9 để đưa họ về tạm cư tại quận lỵ Cam Lộ, cách Khe Sanh khoảng 40 km đường chim bay.
Đêm 9 tháng 2/1968, Tiểu đoàn 1/9 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ bị tấn công bất ngờ tại tiền đồn hầm đá ngoài căn cứ. Quân trú phòng phải rút về phòng tuyến trong và rạng sáng ngày 10/2/1968, tiểu đoàn 1/9 tái chiếm lại cứ điểm. Trong cuộc giao tranh này phía Cộng quân bỏ lại 200 xác chết trên trận địa, phía TQLC Hoa Kỳ có 21 quân nhân tử trận.Việc tiếp tế cho quân trú phòng đã gặp khó khăn. Các vận tải cơ C-130 đáp xuống phi đạo trở thành mục tiêu của các họng pháo Cộng quân cứ nhắm vào sân bay. Ngày 11 tháng 2/1968, Cộng quân gia tăng pháo kích vào phi đạo, 2 vận tải cơ C-130 bị trúng đạn pháo, 1 bốc cháy trên phi đạo, 6 người trong phi hành đoàn chết. Chiếc thứ 2 phải rời ngay phi đạo với hàng trăm lỗ trên sàn tàu bị đạn. Cơ khí trưởng của vận tải cơ này đã phải dùng đến tay chân thay thế cho máy móc để phi cơ có thể bay về Đà Nẵng an toàn.
Send comment