Trái bom đầu tiên được thả từ phi cơ trong cuộc chiến tranh Balkans vào năm 1912. Tuy gọi là bom nhưng thực sự khi đó chỉ là những trái lựu đạn được chế tạo lớn hơn loại lựu đạn thường dùng trong bộ binh. Mãi đến 1916, Anh quốc mới chế tạo loại bom đặc biệt dùng cho phi cơ.
Thời gian Đệ Nhị thế chiến, kỹ nghệ chế tạo bom đã phát triển rất nhanh. Khi cuộc thế chiến bùng nổ vào năm 1939, trái bom lớn nhất chỉ nặng 227 kí với chiều cao một thước tám, đường kính 33 phân. Nhưng đến năm 1945 khi cuộc chiến sắp kết thúc, các quốc gia Đồng Minh đã chế tạo được những trái bom khổng lồ nặng 10 tấn với chiều cao 7 thước 6 và đường kính tới thước mốt. Nhưng dù những trái bom thường có khổng lồ mấy chăng nữa, sức tàn phá cũng không thấm vào đâu so với một trái bom nguyên tử.
Ngày 6 tháng 8 năm 1945, trái bom nguyên tử đầu tiên với sức công phá 20 kilotons (tương đương 2000 trái bom 10 tấn) đã được Mỹ chế tạo và thả xuống thành phố Hiroshima khiến cả thành phố với diện tích trên 100 cây số vuông trở thành bình địa và hàng trăm ngàn người chết, mấy chục ngàn người bị thương.
Nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt về mức độ công phá là sự khác biệt về cách thức giải tỏa năng lượng giữa hai loại bom. Với bom thường, thuốc nổ là một hỗn hợp bao gồm các hóa chất khác nhau. Bình thường, thuốc nổ không gây tai hại hay nguy hiểm gì. Nhưng khi gặp phải tia lửa nhỏ, thuốc nổ bùng cháy dữ dội khiến năng lượng và áp suất gia tăng trong chớp nhoáng. Nếu quá trình bùng cháy tạo áp suất xảy ra trong ruột một viên đạn hay một trái bom, sẽ tạo nên một lực đẩy khổng lồ đẩy đầu đạn ra khỏi nòng súng hoặc làm trái bom vỡ tan từng mảnh vụn. Với bom nguyên tử, những trung hòa tử (neutrons) sẽ được xử dụng để phá vỡ các nhân của một chất đồng vị phóng xạ (radioactive isotope) gọi là uranium 235 khiến mỗi nhân của chất này tách ra làm đôi đồng thời tạo nên từ hai đến ba trung hòa tử mới. Sau đó, các trung hòa tử mới lại tiếp tục phá vỡ nhân của các đồng vị phóng xạ uranium khác, và cứ như vậy tạo nên một phản ứng dây chuyền (chain reaction) trong thời gian chớp nhoáng. Tiến trình phản ứng dây chuyền như vậy sẽ đột ngột sản sinh một năng lượng khủng khiếp tương đương hàng ngàn tấn thuốc nổ TNT (Tri Nitro Toluene). Toàn bộ phản ứng tạo năng lượng nguyên tử này được gọi là phản ứng phân hạch (fission). Phản ứng này nếu được kiểm soát như trong các lò nguyên tử lực, nhiệt năng do phản ứng phân hạch tạo ra sẽ được dùng để biến thành điện năng phụng sự cho đời sống và hòa bình. Trái lại, nếu không được kiểm soát, phản ứng phân hạch sẽ dẫn đến những tàn phá ghê gớm về nhân mạng, tài sản và hậu quả khủng khiếp do phóng xạ nguyên tử để lại.
Khi một trái bom nguyên tử trung bình phát nổ, trong vòng bán kính 5 cây số, sắp thép đều bị bốc thành hơi, đất thành gạch; từ 5 cây đến 6 cây số, sắp thép bị chảy; từ 6 đến 13 cây số, gỗ, cao su, nhựa đều bốc cháy; từ 13 đến 24 cây, người bị cháy thành than, vải vóc đều bốc lửa; từ 24 đến 40 cây, người và động vật đều bị bỏng ở cấp một và hai. Từ 40 cây trở đi, đều có nguy cơ bị nhiễm phóng xạ và đều cảm thấy hơi nóng táp vào mặt không khác chi đứng trước một chiếc bếp lò đang đỏ lửa.
Sau khi Mỹ thành công trong việc chế tạo bom nguyên tử vào năm 1945 thì đến năm 1949, Nga thử thành công trái bom nguyên tử đầu tiên.
Năm 1967, Hoa Kỳ chế tạo thành công hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử Pershing với sức công phá 400 kilotons và tầm hoạt động 740 cây số.
Năm 1970, Hoa Kỳ cho hạ thủy 15 tàu ngầm Poseidon, mỗi chiếc trang bị 100 đầu đạn nguyên tử, mỗi đầu đạn mạnh gấp bốn lần trái bom nguyên tử Hiroshima, nâng tổng số sức mạnh nguyên tử của 15 tàu ngầm Poseidon lên gấp 6000 lần trái bom nguyên tử thả tại Hiroshima.
1974, Nga chế tạo được hỏa tiễn xuyên lục địa SS-18 với sức công phá 24 megatons (mạnh gấp 1200 lần trái bom nguyên tử Hiroshima) và tầm hoạt động 10 ngàn cây số.
Sau đó, Hoa Kỳ chế tạo tàu ngầm Polaris trang bị 16 hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử với sức công phá tương đương tổng số bom đạn của tất các phe phái dùng trong cuộc Đệ Nhị Thế Chiến.
Cho đến hiện nay tuy Nga và Mỹ đã phá hủy một số vũ khí nguyên tử nhưng tổng số vũ khí nguyên tử hai quốc gia hiện còn vẫn đủ sức biến thành bình địa 500 ngàn thành phố cỡ Hiroshima.
(Phạm Thái Lai sưu tầm).
Thời gian Đệ Nhị thế chiến, kỹ nghệ chế tạo bom đã phát triển rất nhanh. Khi cuộc thế chiến bùng nổ vào năm 1939, trái bom lớn nhất chỉ nặng 227 kí với chiều cao một thước tám, đường kính 33 phân. Nhưng đến năm 1945 khi cuộc chiến sắp kết thúc, các quốc gia Đồng Minh đã chế tạo được những trái bom khổng lồ nặng 10 tấn với chiều cao 7 thước 6 và đường kính tới thước mốt. Nhưng dù những trái bom thường có khổng lồ mấy chăng nữa, sức tàn phá cũng không thấm vào đâu so với một trái bom nguyên tử.
Ngày 6 tháng 8 năm 1945, trái bom nguyên tử đầu tiên với sức công phá 20 kilotons (tương đương 2000 trái bom 10 tấn) đã được Mỹ chế tạo và thả xuống thành phố Hiroshima khiến cả thành phố với diện tích trên 100 cây số vuông trở thành bình địa và hàng trăm ngàn người chết, mấy chục ngàn người bị thương.
Nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt về mức độ công phá là sự khác biệt về cách thức giải tỏa năng lượng giữa hai loại bom. Với bom thường, thuốc nổ là một hỗn hợp bao gồm các hóa chất khác nhau. Bình thường, thuốc nổ không gây tai hại hay nguy hiểm gì. Nhưng khi gặp phải tia lửa nhỏ, thuốc nổ bùng cháy dữ dội khiến năng lượng và áp suất gia tăng trong chớp nhoáng. Nếu quá trình bùng cháy tạo áp suất xảy ra trong ruột một viên đạn hay một trái bom, sẽ tạo nên một lực đẩy khổng lồ đẩy đầu đạn ra khỏi nòng súng hoặc làm trái bom vỡ tan từng mảnh vụn. Với bom nguyên tử, những trung hòa tử (neutrons) sẽ được xử dụng để phá vỡ các nhân của một chất đồng vị phóng xạ (radioactive isotope) gọi là uranium 235 khiến mỗi nhân của chất này tách ra làm đôi đồng thời tạo nên từ hai đến ba trung hòa tử mới. Sau đó, các trung hòa tử mới lại tiếp tục phá vỡ nhân của các đồng vị phóng xạ uranium khác, và cứ như vậy tạo nên một phản ứng dây chuyền (chain reaction) trong thời gian chớp nhoáng. Tiến trình phản ứng dây chuyền như vậy sẽ đột ngột sản sinh một năng lượng khủng khiếp tương đương hàng ngàn tấn thuốc nổ TNT (Tri Nitro Toluene). Toàn bộ phản ứng tạo năng lượng nguyên tử này được gọi là phản ứng phân hạch (fission). Phản ứng này nếu được kiểm soát như trong các lò nguyên tử lực, nhiệt năng do phản ứng phân hạch tạo ra sẽ được dùng để biến thành điện năng phụng sự cho đời sống và hòa bình. Trái lại, nếu không được kiểm soát, phản ứng phân hạch sẽ dẫn đến những tàn phá ghê gớm về nhân mạng, tài sản và hậu quả khủng khiếp do phóng xạ nguyên tử để lại.
Khi một trái bom nguyên tử trung bình phát nổ, trong vòng bán kính 5 cây số, sắp thép đều bị bốc thành hơi, đất thành gạch; từ 5 cây đến 6 cây số, sắp thép bị chảy; từ 6 đến 13 cây số, gỗ, cao su, nhựa đều bốc cháy; từ 13 đến 24 cây, người bị cháy thành than, vải vóc đều bốc lửa; từ 24 đến 40 cây, người và động vật đều bị bỏng ở cấp một và hai. Từ 40 cây trở đi, đều có nguy cơ bị nhiễm phóng xạ và đều cảm thấy hơi nóng táp vào mặt không khác chi đứng trước một chiếc bếp lò đang đỏ lửa.
Sau khi Mỹ thành công trong việc chế tạo bom nguyên tử vào năm 1945 thì đến năm 1949, Nga thử thành công trái bom nguyên tử đầu tiên.
Năm 1967, Hoa Kỳ chế tạo thành công hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử Pershing với sức công phá 400 kilotons và tầm hoạt động 740 cây số.
Năm 1970, Hoa Kỳ cho hạ thủy 15 tàu ngầm Poseidon, mỗi chiếc trang bị 100 đầu đạn nguyên tử, mỗi đầu đạn mạnh gấp bốn lần trái bom nguyên tử Hiroshima, nâng tổng số sức mạnh nguyên tử của 15 tàu ngầm Poseidon lên gấp 6000 lần trái bom nguyên tử thả tại Hiroshima.
1974, Nga chế tạo được hỏa tiễn xuyên lục địa SS-18 với sức công phá 24 megatons (mạnh gấp 1200 lần trái bom nguyên tử Hiroshima) và tầm hoạt động 10 ngàn cây số.
Sau đó, Hoa Kỳ chế tạo tàu ngầm Polaris trang bị 16 hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử với sức công phá tương đương tổng số bom đạn của tất các phe phái dùng trong cuộc Đệ Nhị Thế Chiến.
Cho đến hiện nay tuy Nga và Mỹ đã phá hủy một số vũ khí nguyên tử nhưng tổng số vũ khí nguyên tử hai quốc gia hiện còn vẫn đủ sức biến thành bình địa 500 ngàn thành phố cỡ Hiroshima.
(Phạm Thái Lai sưu tầm).
Gửi ý kiến của bạn