Hôm nay,  

Hiệu Năng Đầu Tư Tại Vn

15/06/200500:00:00(Xem: 11058)
Trích dẫn một báo cáo của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản, báo chí Việt Nam nhận định rằng Việt Nam là nơi thu hút đầu tư hấp dẫn cho doanh nghiệp Nhật nhờ nhân công rẻ hơn cả. Có thật không"
Diễn đàn Kinh tế đài RFA trao đổi với kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về ưu thế ấy trong mục chuyên đề hàng tuần do Việt Long thực hiện sau đây.
Hỏi: Trong số ra Thứ Hai 13, báo "Đầu tư" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam có trình bày một báo cáo của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật về cơ hội đầu tư ra nước ngoài cho các doanh nghiệp Nhật Bản, theo đó, Việt Nam được đánh giá cao về khả năng thu hút đầu tư nhờ giá nhân công lao động rẻ nhất. Xin ông cho biết chi tiết về báo cáo này.
-- Thưa đây là một báo cáo được trình bày trong một hội nghị của Ủy ban Phối hợp đầu tư giữa tổ chức ASEAN và Nhật Bản, mới được tổ chức tháng trước tại Vientiane. Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật có làm một cuộc khảo sát về xu hướng đầu tư quốc tế và Nhật Bản trong đó có cả những lượng định về ưu thế đầu tư vào khu vực ASEAN, gồm 10 nước Đông Nam Á, trong đó Việt Nam được đánh giá là hấp dẫn nhờ lương bổng nhân công rẻ nhất.
Tiêu chuẩn để đánh giá lợi thế về đầu tư
Hỏi: Thưa ông, Nhật Bản dựa trên những tiêu chuẩn nào để đánh giá lợi thế về đầu tư"
-- Trước khi trả lời, tôi xin được nói ngay là bản báo cáo nhắm vào mục tiêu gì" Đó là phân tách những lợi hại của họ khi chọn nơi đầu tư ra nước ngoài, căn cứ trên quyền lợi của doanh nghiệp hay kinh tế quốc gia, trường hợp ở đây là Nhật Bản. Như vậy, ta cũng cần lật ra mặt trái của vấn đề để suy nghĩ về quyền lợi của mình khi tiếp nhận đầu tư ố tức là đánh giá hiệu quả của đầu tư. Các nước sở dĩ đầu tư ra ngoài để kiếm lời và cân nhắc lợi ích trên ba hướng, thứ nhất là nhân công rẻ, thứ hai là nơi đầu tư ấy có thể là cơ sở sản xuất để tái xuất khẩu ra ngoài hay không, và thứ ba là thị trường nội địa của xứ ấy có tiềm năng cao hay thấp.
Những ưu thế đáng kể
Hỏi: Như vậy thì Việt Nam cũng có những ưu thế đáng kể phải không"
-- Việt Nam cứ ưa suy nghĩ trên một khía cạnh mình cho là có ưu thế, đó là nhân công rẻ, nhưng tâm lý ấy thực ra có thể gây phản ứng bất lợi trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Như ta đã đề cập đến kỳ trước khi nói về công nghệ tin học, thiên hạ có đánh giá Việt Nam là nơi có lợi vì lương bổng thấp nhưng khi cần đặt làm gia công thì họ vẫn chọn xứ khác, như Ấn Độ hay Trung Quốc, vì nhân công chuyên môn nơi ấy có tay nghề cao hơn và số lượng lớn hơn. Nói chung, các nước công nghiệp sở dĩ đầu tư ra ngoài không chỉ vì tìm nguồn sản xuất rẻ nhờ lương bổng thấp mà chủ yếu là tìm thị trường có tiềm năng tăng trưởng cao. Tuyệt đại đa số đầu tư của doanh nghiệp Mỹ ra nước ngoài chẳng hạn, lại nhắm vào các nước công nghiệp khác có khả năng tiêu thụ cao. Vì vậy, yếu tố thị trường nội địa của mình cũng quan trọng, khi dân số Việt Nam đã vượt quá 80 triệu, và vì nằm trong khu vực có hoạt động mậu dịch mạnh nhất nên Việt Nam có thể là bàn đạp giúp cho nhà đầu tư tái xuất khẩu ra ngoài. Về hai tiêu chuẩn sau này, là thị trường nội địa và tiềm năng xuất khẩu, thì Việt Nam vẫn còn thua kém. Và khi nhìn ngược về quyền lợi của mình, ta cần đánh giá lại hiệu năng đầu tư của xứ khác.
Kết quả đầu tư
Hỏi: Thưa vâng, đề cập tới hiệu năng đầu tư ấy, ông đánh giá ra sao về kết quả đầu tư này"
-- Là một nước nghèo, phát triển chậm hơn các xứ khác, Việt Nam cần thu hút đầu tư của nước ngoài, như một đòn bẩy cần thiết cho việc phát triển kinh tế và xã hội. Nói đến đầu tư, ta không chỉ nhìn vào tư bản hay tiền bạc đo đếm được - tức là nhìn vào lượng - mà còn phải kể đến loại yếu tố vô hình là công nghệ hay kỹ thuật, là kiến năng về tổ chức và quản trị, là năng suất lao động - xin tạm gọi là phẩm. Nói về lượng thì 10 năm trước, Việt Nam đã hy vọng là tư bản nước ngoài có thể góp tới 40% yêu cầu về đầu tư của mình, thời đó được ước lượng là 40 tỷ Mỹ kim trong năm năm, từ 1996 đến năm 2000, trung bình là phải bảy, tám tỷ một năm. Kết cuộc không được vậy, tổng cộng chỉ có 14 tỷ, bình quân chỉ có dăm ba tỷ, mà số thực hiện - tức là được giải ngân, được bơm vào nền kinh tế - lại còn thấp hơn nữa.

Tình hình có khả quan
Hỏi: Nhưng sau đó, chắc hẳn là tình hình có khả quan hơn chứ"
-- Thực ra, qua thế kỷ 21, sau khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được ký kết, giới đầu tư lại có một thời hồ hởi với triển vọng kiếm lời ở Việt Nam và sau đó lại thất vọng vì kết quả cũng không hơn năm năm trước. Giờ đây với chuyến thăm viếng Hoa Kỳ của Thủ tướng Phan Văn Khải, dư luận lại mơ ước là đầu tư nước ngoài, nhất là của Hoa Kỳ, sẽ ào ạt trút vào Việt Nam. Nói riêng về đầu tư của Mỹ thì năm ngoái chưa đạt được 70 triệu, phần lớn trong ba trăm công ty Mỹ đã đầu tư vào Việt Nam đều là doanh nghiệp nhỏ, dự án ít tiền. Nhiều người cố nặn trong thống kê về đầu tư của Mỹ vào Việt Nam vài yếu tố tích cực, như chi nhánh của các tập đoàn lớn của Mỹ tại Singapore hay Hàn Quốc cũng đầu tư vào Việt Nam nhưng lại được ghi là của Á châu. Thực ra, nhìn trên đại thể thì đó vẫn là mối lợi cho mấy xứ châu Á đó chứ chưa phải là mối lợi cho Việt Nam, vì Mỹ dùng đầu cầu Á châu đầu tư vào Việt Nam chứ không phải dùng Việt Nam làm cơ sở đầu tư ra các xứ châu Á khác. Đấy là ta nói về lượng, về phẩm thì kết quả còn nghèo nàn hơn.
Tác dụng của đầu tư
Hỏi: Ông đánh giá thế nào về tác dụng của đầu tư trên các mặt ông gọi là vô hình đó"
-- Một tác dụng mình thấy ngay là nhờ khoản đầu tư bổ sung cho nguồn tư bản còn khan hiếm của xứ mình, doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoại quốc đã tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao khả năng sản xuất của Việt Nam.
Cụ thể là gần một triệu người đã có công ăn việc làm liên hệ đến khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực ấy đóng góp vào khoảng 30% của sản lượng kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, ta không nên hài lòng với kết quả ấy vì những tác dụng khác của đầu tư nước ngoài vẫn còn rất thấp.
Thiết thực nhất cho trình độ kỹ thuật và công nghệ còn thấp của Việt Nam là kiến năng về sản xuất, tổ chức hay tiếp thị, thì ta chưa học được gì nhiều. Nôm na là sức chuyển giao công nghệ còn quá thấp của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam, mà thấp nhất chính là doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, vốn lại là một đầu cầu ưu tiên - vì lý do chính sách và chính trị - để tiếp nhận đầu tư nước ngoài.
Lợi thế về gia tăng năng suất lao động
Hỏi: Thưa ông, thế còn lợi thế về gia tăng năng suất lao động nhờ đầu tư nước ngoài"
-- Thưa vâng, ở một trình độ thấp hơn, tức là năng suất lao động, thì kết quả cũng không cao và điều ấy khiến sự chuyển dịch lao động từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài qua doanh nghiệp nội địa cũng không đáng kể.
Điều tai hại vô hình khác là vì chính sách kinh tế của Việt Nam vẫn là tìm cách thay thế hàng nhập khẩu cho nên đa số đầu tư nước ngoài lại trút vào các ngành được bảo vệ, hay bảo hộ, và vì vậy mà không có khả năng cạnh tranh để tái xuất khẩu ra ngoài, vốn dĩ là một trong ba tiêu chuẩn chọn lựa mà báo cáo của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đã nói tới. Tôi tin rằng giới chức về kinh tế của Việt Nam có thấy ra các nhược điểm ấy chứ chẳng phải là không thấy, nhưng việc cải sửa thường rất khó và rất lâu, trong khi ấy, dư luận chỉ có ấn tượng cảm quan đầy lạc quan về đầu tư nước ngoài.
Hiệu năng đầu tư nước ngoài
Hỏi: Và ông kết luận như thế nào về hiệu năng đầu tư nước ngoài cho tăng trưởng kinh tế"
-- Với tất cả những hạn chế như vừa nói, đầu tư nước ngoài vẫn có những đóng góp đáng kể vào đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, nhưng chưa đóng góp đúng mức cho yêu cầu phát triển về kinh tế và xã hội. Muốn khai thác được đòn bẩy ấy thì cũng phải có trình độ và khả năng tối thiểu về phần nhân công và trình độ giáo dục đào tạo và đừng nên tự ru ngủ rằng mình có lợi thế nhất thiên hạ vì có lương bổng thấp. Điều ấy chả có lợi gì cho lợi tức của nhân công Việt Nam mà chỉ vây hãm kinh tế nước nhà trong phần vụ làm gia công cho thiên hạ, ở loại ngành nghề có trình độ chuyên môn thấp, tức là mình chưa làm chủ được những quyết định kinh tế của mình. Đấy là một khía cạnh rất quan trọng về chủ quyền kinh tế mà mình không để ý tới. Và nếu so với các nước châu Á khác thì dù đã đổi mới, Việt Nam vẫn đang tụt hậu.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.