Hôm nay,  

Bây Giờ Mình Đi Đâu?

28/03/202500:00:00(Xem: 2370)

Picture1
Immigrants deported from the U.S. arrived in Panama City.
Photo by Matias Delacroix - Associated Press (For The New York Times)
 
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
 
Cả ba người đều đeo khẩu trang màu trắng. Hai người đi phía ngoài cột tóc sau gáy, thành một túm nhỏ. Chắc là nữ. Một người mặc quần cụt, một người mặc quần dài ống rộng. Người bên ngoài còn co cánh tay, nâng một cái túi trước bụng, trong túi có vật gì đó ló ra ngoài trông như chai nước. Vậy là họ cũng biết lo cho mạng sống của họ. Nước là thứ quan trọng. Người ta nhịn đói lâu được nhưng nhịn khát thì khó. Người đi phía trong tóc ngắn, hẳn là nam. Cũng có thể là nữ. Vì tóc xuôi vai thả sau lưng khó nhận ra. Người này bị hai người kia che khuất nên chỉ thấy anh (hay chị) ta mặc thứ quần bó ống. Người đi phía trong này đeo cái ba lô to, đầy ắp, cao gần tới đầu. Hai người kia đeo ba lô nhỏ hơn tụt thấp xuống phía sau lưng. Nặng nên xệ xuống, hay nhẹ nhưng quá mệt, không còn sức xốc lên. Hình chụp lúc họ đang rảo bước, chân trước chân sau. Không có gì cho thấy là họ đang trò chuyện. Cũng có thể là họ đang trao đổi những câu đối đáp nhấm nhẳng.
 
Chị ơi, họ đưa mình đi đâu đây. Ai mà biết. Sao họ không cho mình ở lại. Mình đâu xin xỏ gì nhiều. Chỉ cần một chỗ, nhỏ bé, chật hẹp gì cũng được, nhét cả nhà vào một xó cũng xong mà. Mình có dám đòi hỏi gì nhiều đâu. Thôi im đi. Nói lảm nhảm hoài.
 
Bên phải, phía trước họ là bức vách có giấy dán tường đầy hình những tòa dinh thự, mỗi tòa nhà có ba ngọn tháp, bên trên mỗi đỉnh tháp có một lá cờ, cả ba lá cờ đều có màu trắng và đều xuôi theo hướng gió chĩa về phía họ. Hai bóng điện trên trần phía bên phải họ, hắt bóng họ ra ngoài, phía người nhiếp ảnh viên cầm máy ảnh chĩa về phía họ để chụp tấm hình này.
 
Một cơn ho thắt họng. Tiếng thở hì hạch như sắp đứt hơi. Họ đang nghĩ gì? Họ có nghĩ gì không?
 
Đừng ho nữa có được không? Chúng nó thấy ho, chúng nó nhốt riêng một chỗ bây giờ. Em đói quá. Sao họ không cho mình ăn cái gì. Lát nữa người ta có cho mình ăn không. Im đi. Nói thì có bớt đói chút nào không?
 
Dáng đi của họ - nhìn như thể - đang lao về phía trước. Như những kẻ tuyệt vọng, không còn gì để bám víu, đành nhắm vực sâu mà lao tới. Những ánh mắt lạc thần, xoáy về phía trước đã nhòe nhoẹt những mong đợi, đã tàn mạt những ước mơ. Họ phải lao về phía trước vì túi hành lý nặng trĩu sau lưng kéo ghì họ lại hay vì họ đang nhắm mắt đưa chân. Họ đang buông thả.  Nhưng có gì trong mấy cái ba lô mà nặng trĩu hai vai như thế?
 
Mày nhét cái gì vào ba lô mà nặng muốn gẫy lưng? Vài bộ quần áo nhà thờ giúi vào tay hôm nào. Em mừng quá, chưa kịp nói cảm ơn người ta thì đã phải chạy tán loạn. May mà trốn kịp. Trốn có được bao lâu đâu! Ít ra cũng được vài hôm. Được vài hôm êm ấm mà không thích à! Im đi. Lảm nhảm hoài.
 
Những cái ba lô to xù. Gia tài có bao nhiêu dồn cả vào đấy. Vải vụn thôi mà sao trĩu nặng. Bước đi lảo đảo chúi về phía trước. Dáng đi của những sinh vật bị mũi súng thúc vào lưng. Phải chúi về phía trước. Mặc, đến đâu thì đến. Họ đã kiệt sức sau bao nhiêu ngày tháng chồng chất lo âu. Trốn tránh. Sợ hãi bóng đêm. Sợ tiếng máy xe đang chạy bỗng nghe như chậm lại ngoài đường phố. Sợ những bóng người. Sợ những người lạ. Sợ những người quen. Sợ người vẫn thuê mình cắt cỏ khoảnh sân trước nhà họ. Sợ người vẫn đưa mình ra đồng nhặt sâu trên lá. Sợ tiếng chó sủa. Sợ tất cả mọi thứ. Ở thiên đàng nhưng vẫn sợ, bởi thiên đàng không còn là nơi thiên thần dạo bước, thiên đàng không còn là nơi chốn bình yên. Thiên đàng bây giờ là nơi loài quỷ dữ ngự trị.
 
Mình cũng giỏi chứ. Cái gì cũng sợ mà mình vẫn sống, vẫn thở. Bây giờ thì hết sợ rồi. Tụi bay đừng nói nhảm nữa được không. Bây giờ mình không còn phải trốn tránh nữa. Bây giờ mình được tự do. Làm ơn im đi mà.
 
Thì ra họ đã có một thời lén lút ở thiên đàng, bấp bênh miền đất hứa. Hạnh phúc như thế được bao lâu rồi? và bây giờ họ sẽ về đâu? Họ có quê nhà để về không?
 
Họ vẫn lầm lũi đi. Họ có còn gì để nói với nhau không? Chắc là có. Nhưng mà họ sẽ nói với nhau những gì?
 
Từ từ xem nào, đi đâu mà vội thế. Đi mau không lỡ chuyến xe bây giờ. Chuyến xe nào? Im lặng. Một lát lại cái giọng giục giã, Đi gì mà chậm như rùa thế. Nó bỏ lại đây thì chết cả đám. Mệt muốn đứt hơi đây này. Chân đang đau muốn chết. Làm gì mà đau? Bữa hôm chạy trốn, em trượt chân ngã, chị quên rồi à? Cũng phải cố mà đi cho mau. Nó bỏ lại bây giờ. Nó bỏ lại đây làm gì. Đến trước hay đến sau gì thì cũng đến thôi, việc gì phải cuống lên.
 
Một khoảnh khắc lặng im để thở. Rồi lại giọng cằn nhằn, Ban nãy có quên cái gì không? Mình có gì đâu mà quên. Toàn nói nhảm không à!
 
Im lặng. Chợt tiếng một người, Chết rồi, bỏ quên đồ rồi. Quên cái gì? Giọng hoảng hốt ngắt lời. Quên cuốn sách. Cuốn sách gì? Cuốn sách học Anh văn. Tìm ở đâu ra mà có sách Anh văn. Bữa hôm xe lấy rác đầu khu phố, em bới đống recycle - phải đọc là recycle không? - tìm được cuốn sách, trong cái thùng màu xanh bỏ bên lề đường. Mày nói tiếng Mỹ nghe tức cười quá. Người ta đuổi là phải rồi, mà ai bỏ sách cho mày nhặt vậy? Cuốn sách bị ướt hết nhưng vẫn còn đọc được chữ. Sách học tiếng Anh. Mày cất ở đâu mà quên? Im lặng. Người ta tống cổ mình đi còn học hành làm gì nữa. Lại im lặng. Tiếng thở dồn dập. Tiếng ho khan. Sao mà ho hoài thế. Mấy viên thuốc cảm bà Smith - phải tên cái bà Mỹ hiền lành tóc bạc là Smith không - thuốc bà Smith cho có mang theo không? Không. Sao không mang theo? Bây giờ đau ốm thì làm sao? Mang làm sao được mà mang. Người ta khám xét từng món đồ trước khi quăng cái ba lô lại cho mình. Có vài viên thuốc cảm cũng bị tịch thu.  
 
Im lặng. Tiếng chân kéo lẹt xẹt trên nền xi măng. Một lát. Người ta đưa mình đi đâu vậy nhỉ? Ai mà biết. Đi mau lên, ở đó mà lải nhải mãi. Đi đâu cũng vậy thôi. Thắc mắc làm gì. Một khoảng lặng, rồi có tiếng thở dài và, Đưa đi đâu thì cũng vậy thôi. Mình như đã chết rồi. Người chết thì có sợ gì ba cái thứ cảm cúm vớ vẩn.
 
Trước mặt họ là cả một vùng tối ám. Nhìn không rõ hết cái hình người đi trước họ. Chỉ thấy một cẳng chân, một cái ba lô to xù, và một cái đầu trùm khăn. Hai bàn chân đi dép Nhật. Một bọc đồ kéo lê trên nền xi măng.
 
Chị ơi, bây giờ mình đi đâu? Chị không biết đâu. Đừng hỏi chị nữa, nhé.
 
Tôi đang kể câu chuyện của họ. Tôi thấy họ trên một tấm hình đã gần hai tuần lễ rồi. Tấm hình được ghi chú là “Di dân trục xuất từ nước Mỹ, đến Panama City.” Tấm hình làm tôi buồn. Mỗi lần nhìn nó tôi lại ứa nước mắt. Tôi cứ hình dung tôi là họ, thiên đường sau lưng vừa đóng sập cánh cửa, mũi súng lạnh băng dí sau gáy, bóng tối trước mặt như loài yêu quái đang sắp sửa nuốt sống tôi. Tôi lạnh người. Tôi rùng mình, hoảng kinh với cảm giác ấy. Cảm giác ấy cứ cắn xé tôi. Tôi nghĩ tôi sắp chết. Rồi khi tôi lôi tôi ra được khỏi vùng tăm tối ấy, tôi thấy xấu hổ vì tôi không làm gì để giúp họ. Bởi ngày xưa tôi cũng là thứ vô tổ quốc, một thứ stateless trên giấy tờ và ngoài đời sống, một thứ bị chèn ép đến phải bỏ xứ mà đi như họ. Tôi tù đày, đói khát, tôi trốn chui trốn nhủi, tôi lao ra biển, đâm nhào vào cõi chết để tìm ra đường sống. Nhưng tôi may mắn hơn họ. Tôi lao đao, và tôi ngã chúi vào những vòng tay nhân ái.
 
Còn họ thì không.
 
Những con người bị xua đuổi như những kẻ ăn mày mạt hạng. Những con người bị săn đuổi như những con thú không thể giết lấy thịt làm món ăn, không thể vặt lông đem đi dệt áo, những con-thú-người vô tích sự. Từ hôm báo New York Times đăng tấm hình này đến nay đã gần hai tuần rồi. Bây giờ họ ở đâu?
 
250322

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.