Chẳng có ai vừa ra khỏi bụng mẹ là đã biết trượt ván, lướt sóng hay thậm chí là đứng kiễng chân. Không giống như các loài động vật hữu nhũ khác, con người không có khả năng giữ thăng bằng khi mới sinh – không có em bé sơ sinh nào vừa đẻ ra là đã biết đi hoặc đứng. Trước khi có được những khả năng đó, trẻ sơ sinh sẽ phát triển thị giác, thính giác, cơ, xương và não. Quá trình này mất nhiều tháng và thậm chí là nhiều năm đối với một số hoạt động.
Thông thường, trẻ bắt đầu biết lật khi được khoảng 6 tháng tuổi, tầm 9 tháng thì biết bò, và đến thôi nôi là có thể đứng. Đến 18 tháng tuổi, hầu hết trẻ đều có thể tự bước đi và leo cầu thang. Lên 2 tuổi, trẻ mới chập chững (toddlers) có thể làm một số việc phức tạp hơn, chẳng hạn như đá banh. Đến khi lên 3, hầu hết trẻ đã có thể chạy ‘ào ào’ và lên xuống cầu thang với một chân bước trên mỗi bậc. Một số trẻ sẽ đạt được những cột mốc này nhanh hơn, một số khác lại chậm hơn; và đó là điều hoàn toàn bình thường.
Thăng bằng là một kỹ năng
Nếu chú ý, ta sẽ thấy có một số người giữ thăng bằng rất giỏi. Họ có thể khiêu vũ rất đẹp, nhảy dây và nhào lộn ngon lành. Nhưng họ đâu có khả năng này khi mới chào đời. Họ đã tập luyện. Cân bằng là một kỹ năng – ta càng thực hành bất kỳ kỹ năng nào nhiều thì càng trở nên nhuần nhuyễn, thông thạo hơn; dù một số người có thể thành thạo kỹ năng đó một cách tự nhiên hơn.
Cơ thể chúng ta 3 hệ thống phải phối hợp với nhau để giúp giữ trạng thái cân bằng tốt: hệ thống thị giác (visual system), hệ thống cảm giác cơ thể (somatosensory system) và hệ thống tiền đình (vestibular system).
Hệ thống thị giác (visual system) bao gồm mắt, các dây thần kinh thị giác (optic nerves) kết nối mắt với não, và vỏ não thị giác (visual cortex). Trẻ mới chào đời không thể nhìn xa, chúng chỉ có thể nhìn thấy ở khoảng 10 đến 12 inch. Khi hệ thống thị giác của trẻ phát triển, bộ não học cách giải quyết các thông tin thị giác để giúp trẻ di chuyển và giữ thăng bằng tốt hơn.
Hệ thống cảm giác cơ thể (somatosensory system) ghi lại các cảm giác được phát hiện bởi các cơ, khớp, da và các mô cơ thể kết nối chúng, được gọi là mạc cơ (fascia). Những nhận thức về xúc giác, áp lực, đau đớn, nhiệt độ, vị trí, chuyển động và rung động truyền qua các con đường trong tủy sống, thân não và nhân đồi não (thalamus) – một cấu trúc nhỏ hình quả trứng ở trung tâm bộ não – nơi chúng được tích hợp và phân tích.
Thí dụ, khi trẻ cố gắng đứng vững, não của trẻ sẽ giải quyết các cảm giác đến từ bàn chân, cẳng chân và bàn tay để giúp trẻ giữ thăng bằng.
Hệ thống tiền đình (vestibular system), là hệ thống thính giác và thăng bằng của cơ thể, bao gồm năm cơ quan riêng biệt trong tai. Bên trong các cơ quan có chất lỏng, chất lỏng này sẽ chuyển động khi cơ thể và đầu chuyển động. Khi chất lỏng di chuyển, nó sẽ gửi tín hiệu đến não, giúp chúng ta nhận thức được vị trí của mình để có thể giữ thăng bằng.
Hệ thống thần kinh trung ương sử dụng thông tin đến từ ba hệ thống trên, tạo ra các tín hiệu được gửi trở lại các cơ thích hợp trong cơ thể để giúp duy trì sự cân bằng của cơ thể.
Những người khỏe mạnh dựa vào thông tin cảm giác cơ thể khoảng 70%, 20% vào thông tin hệ thống tiền đình và 10% vào thị giác để duy trì sự cân bằng trên các bề mặt chắc chắn.
Xảy ra điều gì đó bất thường ở bất kỳ một trong ba hệ thống này có thể ảnh hưởng đến việc giữ cân bằng. Nhưng khi một hệ thống bị ảnh hưởng, hai hệ thống còn lại vẫn có thể được đào tạo để bù đắp.
Bị mất thăng bằng
Có nhiều cách khiến ta bị mất thăng bằng. Khi ta đứng trên mặt băng trơn trượt, các cơ quan cảm giác ở bàn chân không thể gửi tín hiệu thích hợp đến bộ não đủ nhanh để não kịp kích hoạt các cơ giúp duy trì thăng bằng.
Hoặc khi mò mẫm trong bóng tối, ta sẽ dễ có nguy cơ bị té ngã bởi vì não nhận được quá ít thông tin hình ảnh về môi trường xung quanh. Những người mắt kém hoặc mù sẽ học cách dựa vào hai hệ thống giác quan còn lại nhiều hơn để duy trì sự thăng bằng.
Khi có thứ gì đó khiến ta mất thăng bằng, chẳng hạn như bị va vấp khi đi hoặc chạy, nó có thể gây ra hiện tượng gọi là “phản xạ tiền đình” (vestibulospinal reflex). Hệ thống tiền đình và cảm giác cơ thể gửi tín hiệu đến não, từ đó kích hoạt các cơ thích hợp để giúp chúng ta khỏi bị ngã.
Khi con người già đi, khả năng giữ thăng bằng thường giảm vì sức mạnh cơ bắp và thị lực bị giảm do tuổi tác, cũng như các nguyên nhân khác. Điều này làm tăng nguy cơ bị té ngã. Trên thực tế, té ngã là nguyên nhân hàng đầu gây thương tích thể chất cho những người từ 65 tuổi trở lên. Người cao niên có thể tập các bài tập giữ thăng bằng, sức mạnh và sự linh hoạt; đây cũng là một cách để đỡ bị té ngã.
Chúng ta cũng có thể gặp khó khăn trong việc giữ thăng bằng do các vấn đề về thần kinh, viêm khớp và chấn thương khớp.
Học cách cân bằng tốt hơn
Tất cả những điều này giải thích tại sao chúng ta cần phải luyện tập nếu muốn cải thiện khả năng giữ thăng bằng của mình. Thí dụ, các vận động viên thể dục liên tục thách thức hệ thống tiền đình và cảm giác cơ thể của họ khi tập đi trên những thanh xà nhỏ xíu. Họ rèn luyện bộ não của mình để phản ứng với những thay đổi rất tinh tế, có nghĩa là họ ngày càng cảnh giác tốt hơn.
Đôi khi, một số người bẩm sinh mắc các chứng rối loạn hoặc các vấn đề về phát triển, chẳng hạn như bại não, ảnh hưởng đến hệ thống thị giác, tiền đình hoặc cảm giác cơ thể. Với các trường hợp này, tốt nhất là trẻ nên bắt đầu tập vật lý trị liệu thật sớm, giúp chúng đạt được các mốc phát triển quan trọng – từ việc ngẩng đầu cho đến đứng và tự bước đi.
Khi điều trị cho những người có vấn đề về thăng bằng, bác sĩ sẽ bắt đầu từ việc đánh giá xem hệ thống cảm giác thân thể của họ có hoạt động bình thường hay không, rồi hỏi về các vết thương ở cơ hoặc xương. Tùy thuộc vào vấn đề cụ thể, họ có thể thực hiện các bài tập đơn giản như đứng hoặc dậm chân tại chỗ, rồi tiến tới các bài tập khó hơn như đi nhanh hoặc vừa đi vừa nói.
Nguồn: “Are people born with good balance? A physical therapist explains the systems that help keep you on your toes” của Gurpreet Singh, được đăng trên trang TheConversation.com.
Gửi ý kiến của bạn