Hôm nay,  

Tử lộ cho các nước đang phát triển khi vay nợ Trung Quốc làm dự án “Vành đai và Con đường”

11/09/202316:58:00(Xem: 1363)
Chính luận

Screenshot 2023-09-11 171220 Dự án “SK/VĐ&CĐ” của Trung Quốc.

 

Năm nay đánh dấu kỷ niệm mười năm thành lập “Sáng Kiến Vành Đai & Con Đường” (SK/VĐ&CĐ) của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng lớn nhất và đầy tham vọng nhất trong lịch sử nhân loại. Trung Quốc đã cho vay hơn 100 ngàn tỷ đô la Mỹ cho hơn 100 quốc gia qua chương trình này, nó làm giảm chi tiêu của phương Tây ở các nước đang phát triển và dấy lên lo ngại về sự lan rộng quyền lực và ảnh hưởng của Bắc Kinh.
    Nhiều nhà phân tích mô tả các đặc điểm khoản cho vay của Trung Quốc qua SK/VĐ&CĐ là “nền ngoại giao gây bẫy nợ”, được thiết kế để cung cấp cho Trung Quốc một đòn bẩy đối với các nước khác và thậm chí chiếm giữ cơ sở hạ tầng và tài nguyên của họ. Sau khi Sri Lanka chậm thanh toán cho dự án cảng Hambantota, khi họ gặp khó khăn hồi năm 2017, Trung Quốc đã có được hợp đồng thuê tài sản này trong 99 năm, như một phần của thỏa thuận tái đàm phán về các khoản nợ. Thỏa thuận này dấy lên lo ngại ở Washington và thủ đô các nước phương Tây khác cho rằng, mục tiêu thật sự của Bắc Kinh là chiếm dụng các cơ sở chiến lược trên khắp Ấn Độ Dương, Vịnh Ba Tư và châu Mỹ.
    Nhưng trong vài năm qua, một bức tranh khác về “SK/VĐ&CĐ” đã xuất hiện. Nhiều dự án về cơ sở hạ tầng do Trung Quốc tài trợ đã không thu lợi như các nhà phân tích mong đợi. Và bởi vì các chính phủ đàm phán các dự án này thường đồng ý dừng các khoản vay, họ đã thấy mình phải chịu gánh nặng với khoản nợ khổng lồ, họ không thể bảo đảm việc tài trợ cho các dự án trong tương lai hoặc thậm chí để trả khoản nợ mà họ đã tích lũy. Điều này đúng không chỉ với riêng Sri Lanka, mà còn cho Argentina, Kenya, Malaysia, Montenegro, Pakistan, Tanzania và nhiều quốc gia khác. Vấn đề đối với phương Tây không phải là Trung Quốc sẽ tiếp thu các cảng và tài sản chiến lược khác ở các nước đang phát triển, mà còn nhiều hơn thế, là các nước này sẽ mắc nợ quá nghiêm trọng, buộc họ phải chuyển sang cầu cứu Quỹ Tiền tệ Quốc tế (QTTQT) và các định chế tài chính quốc tế khác, được phương Tây hậu thuẫn để giúp trả các khoản vay của họ từ Trung Quốc.
    Ở nhiều nơi trên thế giới đang phát triển, Trung Quốc bị coi là một chủ nợ tham lam và không khoan nhượng, không quá khác biệt so với các tập đoàn đa quốc gia của phương Tây và những nhà cho vay đã tìm cách thu hồi nợ xấu trong nhiều thập niên qua. Nói cách khác, khác với cách cải cách mới như là một nhà cho vay bóc lột, Trung Quốc dường như đang đi theo đường đi quen thuộc của các nhà đầu tư phương Tây. Tuy nhiên, khi làm như vậy, Bắc Kinh có nguy cơ xa lánh chính các quốc gia mà họ đặt ra để lôi kéo vào trong SK/VĐ&CĐ và lãng phí ảnh hưởng kinh tế của mình ở các nước đang phát triển. Nó cũng có nguy cơ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nợ vốn dĩ đã làm khó khăn ở các thị trường mới nổi mà nó có thể dẫn đến một “thập niên mất mát” như nhiều nước thuộc Mỹ Latin đã trải qua trong thập niên 1980.
    Để tránh kết cục thảm khốc đó và tránh việc dùng tiền thuế của người dân phương Tây để trả nợ xấu cho Trung Quốc, Hoa Kỳ và các nước khác nên thúc đẩy các cải cách trên diện rộng, khiến cho việc tận dụng lợi thế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các định chế tài chính quốc tế khác trở nên khó khăn hơn, bằng cách áp đặt các tiêu chí khắt khe hơn đối với các quốc gia tìm kiếm gói cứu trợ và yêu cầu tính minh bạch hơn trong việc cho vay từ tất cả các thành viên của họ, trong đó có cả Trung Quốc.
 
Cuộc thương thảo khó khăn ở những thị trường lỏng lẻo
 
Vào thập niên 1970, Raymond Vernon, nhà kinh tế học thuộc đại học Harvard nhận thấy rằng, các nhà đầu tư phương Tây có ưu thế khi đàm phán về các thỏa thuận ở các nước đang phát triển, vì họ có vốn và bí quyết để xây dựng các nhà máy, đường xá, giếng dầu và nhà máy điện mà các nước nghèo hơn đang rất cần. Kết quả là, họ có thể đạt được những thoả thuận có lợi hơn cho riêng mình, chuyển phần lớn các rủi ro sang các nước đang phát triển. Tuy nhiên, khi các dự án hoàn thành, cán cân quyền lực đã thay đổi. Các tài sản mới không thể bị lấy đi, vì vậy các nước đang phát triển có nhiều đòn bẩy hơn để đàm phán lại về các điều khoản trả nợ hoặc về các quyền sở hữu. Trong một số trường hợp, các cuộc đàm phán gây tranh cãi, dẫn đến việc quốc hữu hóa hoặc phá sản.
    Kịch bản tương tự đã diễn ra ở một số quốc gia có liên quan về SK/VĐ&CĐ. Các dự án lớn do Trung Quốc tài trợ đã tạo ra các khoản thất thu hoặc không kích thích được loại tăng trưởng kinh tế trên diện rộng mà các nhà hoạch định chính sách dự đoán. Một số dự án vấp phải sự phản đối từ các cộng đồng dân chúng địa phương, những người mà đất đai và sinh kế của họ bị đe dọa. Một số người khác thiệt hại môi trường hoặc trải qua thất bại vì chất lượng xây dựng kém của Trung Quốc. Vấn đề này xuất phát từ các vụ tranh chấp lâu dài về ưu tiên của Trung Quốc trong việc sử dụng công nhân và nhà thầu phụ của chính mình để xây dựng cơ sở hạ tầng, ngăn chặn các đối tác địa phương.
    Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất cho đến nay là nợ. Ở Argentina, Ethiopia, Montenegro, Pakistan, Sri Lanka, Zambia và những nơi khác, các dự án quá tốn kém của Trung Quốc đã đẩy tỷ lệ nợ tính trên GDP lên đến các mức không thể duy trì và tạo ra các khủng hoảng trong cán cân thanh toán. Trong một số trường hợp, chính phủ các nước đã đồng ý bù đắp bất kỳ khoản thiếu hụt doanh thu nào, họ đưa ra sự bảo đảm của nhà nước để bắt buộc người nộp thuế phải trả chi phí cho các dự án thất bại. Cái gọi là những khoản nợ tiềm ẩn này thường được che giấu dân chúng và các chủ nợ khác, che khuất mức nợ thật sự mà chính phủ phải chịu trách nhiệm. Ở Montenegro, Sri Lanka và Zambia, Trung Quốc đã thực hiện các thỏa thuận như vậy với các chính phủ tham nhũng hoặc nghiêng về độc tài, sau đó để lại khoản nợ cho các chính phủ ít tham nhũng hơn và nhiều dân chủ hơn, khiến họ phải chịu trách nhiệm để thoát khỏi các cuộc khủng hoảng.
    Trách nhiệm tiềm ẩn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước không phải là trường hợp duy nhất đối với SK/VĐ&CĐ, và cũng có thể gây khó khăn cho những dự án do tư nhân tài trợ. Điều làm cho các cuộc khủng hoảng nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ trở nên khác biệt là, trách nhiệm tiềm ẩn này là nợ do các ngân hàng trong chính sách của nhà nước Trung Quốc, không phải do các tập đoàn tư nhân, và Trung Quốc đang tiến hành việc tái đàm phán nợ trên cơ sở song phương.
    Rõ ràng, Bắc Kinh cũng đang gặp khó khăn trong đàm phán, bởi vì các nước thuộc về SK/VĐ&CĐ ngày càng lựa chọn những gói cứu trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế, mặc dù họ thường đi kèm với các điều kiện khó khăn, thay vì cố gắng đàm phán giải cứu thêm từ Bắc Kinh. Trong số các quốc gia mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã can thiệp để hỗ trợ trong những năm gần đây là Sri Lanka (1,5 tỷ đô la Mỹ năm 2016), Argentina (57 tỷ năm 2018), Ethiopia (2,9 tỷ năm 2019), Pakistan (6 tỷ năm 2019), Ecuador (6,5 tỷ năm 2020), Kenya (2,3 tỷ năm 2021), Suriname (688 triệu đô năm 2021), Argentina (44 tỷ năm 2022), Zambia (1,3 tỷ năm 2022), Sri Lanka (2,9 tỷ năm 2023) và Bangladesh (3,3 tỷ năm 2023).
    Một số nước kể trên đã tiếp tục trả nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ ngay sau khi các cơ sở tín dụng mới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế được đưa ra. Chẳng hạn như, đầu năm 2021, Kenya đã tìm cách đàm phán để trì hoãn việc thanh toán lãi suất cho một dự án đường sắt do Trung Quốc tài trợ, nối liền Nairobi với Mombasa, cảng của Kenya ở Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, sau khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế phê duyệt khoản tín dụng 2,3 tỷ vào tháng Tư, Bắc Kinh bắt đầu giữ lại các khoản thanh toán cho các nhà thầu trong các dự án khác do Trung Quốc tài trợ ở Kenya. Do đó, các nhà thầu phụ và nhà cung cấp Kenya đã ngừng nhận các khoản thanh toán. Cuối năm đó, Kenya tuyên bố sẽ không còn tìm cách gia hạn giảm nợ từ Trung Quốc và thực hiện khoản thanh toán nợ 761 triệu đô la cho dự án đường sắt.
    Đối với Kenya và các nơi khác trên thế giới, đang phát triển các rủi ro liên quan là quá lớn. Làn sóng khủng hoảng nợ này có thể tồi tệ hơn nhiều so với những cuộc khủng hoảng trước đây, gây thiệt hại kinh tế lâu dài cho các nền kinh tế vốn đã dễ bị tổn thương, khiến chính phủ họ sa lầy trong các cuộc đàm phán kéo dài và tốn kém. Vấn đề vượt ra ngoài thực tế đơn giản là, mỗi đô la chi cho việc trả nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ không thể duy trì, là một đô la không có để sử dụng cho việc phát triển kinh tế, chi tiêu xã hội hoặc chống việc biến đổi khí hậu. Chủ nợ ngoan cố trong các cuộc khủng hoảng về nợ tại thị trường mới nổi ngày nay không phải là một quỹ phòng hộ hay chủ nợ tư nhân khác, mà là người cho vay song phương lớn nhất thế giới, trong nhiều trường hợp, họ là đối tác thương mại lớn nhất của quốc gia con nợ. Khi các chủ nợ tư nhân nhận thức rõ hơn về những rủi ro của việc cho vay, đối với các nước có liên hệ về SK/VĐ&CĐ, các quốc gia này sẽ thấy mình bị mắc kẹt giữa các chủ nợ còn tranh chấp và không thể tiếp cận nguồn vốn mà họ cần để giữ cho nền kinh tế của họ hoạt động.
 
Các khuôn mặt tiềm ẩn
 
Bắc Kinh có nhiều mục tiêu cho SK/VĐ&CĐ. Đầu tiên và quan trọng nhất, họ tìm cách giúp các doanh nghiệp Trung Quốc, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước nhưng cũng có một số doanh nghiệp tư nhân, kiếm tiền ở nước ngoài, để giữ cho ngành xây dựng khổng lồ của Trung Quốc tồn tại và duy trì việc làm của hàng triệu công nhân Trung Quốc. Bắc Kinh chắc chắn cũng có các mục tiêu về chính sách đối ngoại và an ninh, bao gồm giành ảnh hưởng chính trị và trong một số trường hợp bảo đảm quyền tiếp cận các cơ sở chiến lược. Số lượng lớn các dự án kề cận mà Bắc Kinh thực hiện, gợi ý về những động lực này: Tại sao lại tài trợ cho các dự án ở các quốc gia có các rủi ro chính trị quá lớn, chẳng hạn như ở Cộng hòa Dân chủ Congo hoặc Venezuela?
    Nhưng những cáo buộc về nền ngoại giao gây bẫy nợ đã bị thổi phồng. Thay vì cố tình làm cho người vay nợ sa lầy để đạt được những nhượng bộ về địa chính trị, các chủ nợ Trung Quốc có thể chỉ làm việc thẩm định kém. Các khoản cho vay thuộc về SK/VĐ&CĐ được thực hiện bởi ngân hàng nhà nước Trung Quốc, thông qua các doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc cho các doanh nghiệp nhà nước ở các nước đi vay. Hợp đồng được đàm phán trực tiếp, thay vì mở rộng cho công chúng đấu thầu, vì vậy thiếu vắng một trong những lợi ích của tài trợ tư nhân và mua sắm công khai: Một cơ chế thị trường minh bạch để bảo đảm cho các dự án có khả năng tài chính.
    Kết quả tự nó đã nói lên tất cả. Năm 2009, chính phủ Montenegro yêu cầu có việc đấu thầu về hợp đồng xây dựng đường cao tốc nối Bar, thuộc cảng Adriatic, với Serbia. Hai nhà thầu tư nhân tham gia vào hai tiến trình mua sắm, nhưng cả hai đều không thể huy động được nguồn tài trợ cần thiết. Kết quả là, Montenegro chuyển sang Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc, họ không chia sẻ các mối quan tâm của thị trường, và hiện nay đường cao tốc là nguyên nhân chính gây ra tình trạng khó khăn tài chính cho Montenegro. Theo ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm 2019, tỷ lệ nợ của nước này tính trên GDP là 59%, nếu nước này không theo đuổi dự án. Thế nhưng, tỷ lệ này được dự báo sẽ tăng lên 89% trong năm đó.
Không phải tất cả các dự án thuộc SK/VĐ&CĐ đều hoạt động kém hiệu quả. Dự án cảng Piraeus của Hy Lạp nhằm mở rộng bến cảng lớn nhất của đất nước đã mang lại kết quả đôi bên cùng có lợi mà Bắc Kinh đã hứa, cũng như các sáng kiến khác thuộc về SK/VĐ&CĐ. Nhưng nhiều dự án khiến cho các quốc gia phải chịu cảnh nợ nần thúc ép và lo sợ với sự can dự chặt chẽ hơn với Trung Quốc. Trong một số trường hợp, giới lãnh đạo và tinh hoa là những nhà đàm phán về các thỏa thuận đã được hưởng lợi, nhưng phần đông dân chúng thì không.
    Nói cách khác, SK/VĐ&CĐ của Trung Quốc đặt ra vấn đề cho các nước phương Tây, nhưng mối đe dọa chính không phải là chiến lược. Ngược lại, Sáng kiến này tạo ra áp lực có thể gây bất ổn cho các nước đang phát triển, từ đó tạo ra các vấn đề cho các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu, nơi các nước này chuyển sang xin hỗ trợ. Trong sáu thập niên qua, các chủ nợ của phương Tây đã phát triển các tổ chức như Câu lạc bộ Paris để giải quyết các vấn đề liên quan đến tình trạng phá sản, để bảo đảm mức độ hợp tác giữa các chủ nợ và việc quản lý khủng hoảng về khả nắng thanh toán một cách công bằng. Nhưng Trung Quốc vẫn chưa đồng ý tham gia nhóm này, và thủ tục cho vay không rõ ràng của họ khiến các định chế quốc tế khó đánh giá chính xác được mức độ rắc rối của một quốc gia gặp phải.
    Năm nay đánh dấu kỷ niệm mười năm thành lập “SK/VĐ&CĐ” của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, dự án phát triển cơ sở hạ tầng lớn nhất và đầy tham vọng nhất trong lịch sử nhân loại. Trung Quốc đã cho vay hơn 100 ngàn tỷ đô la Mỹ cho hơn 100 quốc gia qua chương trình này, nó làm giảm chi tiêu của phương Tây ở các nước đang phát triển và dấy lên lo ngại về sự lan rộng quyền lực và ảnh hưởng của Bắc Kinh.
    Nhiều nhà phân tích mô tả các đặc điểm khoản cho vay của Trung Quốc qua SK/VĐ&CĐ là “nền ngoại giao gây bẫy nợ”, được thiết kế để cung cấp cho Trung Quốc một đòn bẩy đối với các nước khác và thậm chí chiếm giữ cơ sở hạ tầng và tài nguyên của họ. Sau khi Sri Lanka chậm thanh toán cho dự án cảng Hambantota, khi họ gặp khó khăn hồi năm 2017, Trung Quốc đã có được hợp đồng thuê tài sản này trong 99 năm, như một phần của thỏa thuận tái đàm phán về các khoản nợ. Thỏa thuận này dấy lên lo ngại ở Washington và thủ đô các nước phương Tây khác cho rằng, mục tiêu thật sự của Bắc Kinh là chiếm dụng các cơ sở chiến lược trên khắp Ấn Độ Dương, Vịnh Ba Tư và châu Mỹ.
    Nhưng trong vài năm qua, một bức tranh khác về “SK/VĐ&CĐ” đã xuất hiện. Nhiều dự án về cơ sở hạ tầng do Trung Quốc tài trợ đã không thu lợi như các nhà phân tích mong đợi. Và bởi vì các chính phủ đàm phán các dự án này thường đồng ý dừng các khoản vay, họ đã thấy mình phải chịu gánh nặng với khoản nợ khổng lồ, họ không thể bảo đảm việc tài trợ cho các dự án trong tương lai hoặc thậm chí để trả khoản nợ mà họ đã tích lũy. Điều này đúng không chỉ với riêng Sri Lanka, mà còn cho Argentina, Kenya, Malaysia, Montenegro, Pakistan, Tanzania và nhiều quốc gia khác. Vấn đề đối với phương Tây không phải là Trung Quốc sẽ tiếp thu các cảng và tài sản chiến lược khác ở các nước đang phát triển, mà còn nhiều hơn thế, là các nước này sẽ mắc nợ quá nghiêm trọng, buộc họ phải chuyển sang cầu cứu Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các định chế tài chính quốc tế khác, được phương Tây hậu thuẫn để giúp trả các khoản vay của họ từ Trung Quốc.
    Ở nhiều nơi trên thế giới đang phát triển, Trung Quốc bị coi là một chủ nợ tham lam và không khoan nhượng, không quá khác biệt so với các tập đoàn đa quốc gia của phương Tây và những nhà cho vay đã tìm cách thu hồi nợ xấu trong nhiều thập niên qua. Nói cách khác, khác với cách cải cách mới như là một nhà cho vay bóc lột, Trung Quốc dường như đang đi theo đường đi quen thuộc của các nhà đầu tư phương Tây. Tuy nhiên, khi làm như vậy, Bắc Kinh có nguy cơ xa lánh chính các quốc gia mà họ đặt ra để lôi kéo vào trong SK/VĐ&CĐ và lãng phí ảnh hưởng kinh tế của mình ở các nước đang phát triển. Nó cũng có nguy cơ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng nợ vốn dĩ đã làm khó khăn ở các thị trường mới nổi mà nó có thể dẫn đến một “thập niên mất mát” như nhiều nước thuộc Mỹ Latin đã trải qua trong thập niên 1980.
    Để tránh kết cục thảm khốc đó và tránh việc dùng tiền thuế của người dân phương Tây để trả nợ xấu cho Trung Quốc, Hoa Kỳ và các nước khác nên thúc đẩy các cải cách trên diện rộng, khiến cho việc tận dụng lợi thế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các định chế tài chính quốc tế khác trở nên khó khăn hơn, bằng cách áp đặt các tiêu chí khắt khe hơn đối với các quốc gia tìm kiếm gói cứu trợ và yêu cầu tính minh bạch hơn trong việc cho vay từ tất cả các thành viên của họ, trong đó có cả Trung Quốc.
 
Thận trọng và áp lực
 
Một số nhà phân tích lập luận rằng, SK/VĐ&CĐ không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ hiện nay ở các thị trường mới nổi. Họ chỉ ra rằng, các nước như Ai Cập và Ghana nợ của các trái chủ hoặc các nhà cho vay đa phương như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới còn nhiều hơn là của Trung Quốc và vẫn đang tranh đấu để quản lý gánh nặng nợ của họ. Nhưng những lập luận như vậy mô tả sai các đặc điểm của vấn đề, đó không chỉ đơn giản là nợ xấu thuộc về SK/VĐ&CĐ đang gộp lại, mà là nợ còn tìm ẩn trong chương này. Theo một nghiên cứu của Journal of International Economic trong năm 2021, khoảng một nửa số tiền vay của Trung Quốc từ các nước đang phát triển là “che đậy”, nghĩa là chúng không được đưa vào thống kê nợ chính thức. Một nghiên cứu khác được the American Economic Association công bố năm 2022 cho thấy, các khoản nợ như vậy dẫn đến hàng loạt “sự vỡ nợ tiềm ẩn”.
    Vấn đề đầu tiên đối với các khoản nợ tìm ẩn xảy ra khi việc tích tụ nợ đưa đến khủng hoảng, những người cho vay khác không biết nghĩa vụ thanh toán đang tồn tại và do đó không thể đánh giá một cách chính xác về rủi ro tín dụng. Vấn đề thứ hai xảy ra từ cuộc khủng hoảng, khi những người cho vay khác biết về khoản nợ không được tiết lộ và mất niềm tin vào việc tái cơ cấu nợ. Không cần phải có nhiều nợ song phương tiềm ẩn để gây ra một cuộc khủng hoảng tín dụng, và thậm chí còn mất ít hơn để phá vỡ niềm tin về những nỗ lực giải quyết.
    Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp để giảm bớt căng thẳng từ các khoản nợ này, trong tìm ẩn hay trong các thứ khác. Họ cung cấp những gói cứu trợ riêng cho các nước có liên hệ với SK/VĐ&CĐ, thường dưới hình thức hoán đổi tiền tệ và các khoản vay bắc cầu khác cho những ngân hàng trung ương đi vay. Các gói cứu trợ này đang gia tăng, theo một tài liệu được công bố vào tháng 3/2023, Ngân hàng Thế giới ước tính rằng, Trung Quốc mở rộng hơn 185 tỷ đô la cho những cơ sở như vậy từ năm 2016 đến năm 2021. Nhưng thanh toán do ngân hàng trung ương kém minh bạch hơn so với các khoản vay theo truyền thống của nhà nước, điều này càng làm phức tạp thêm việc tái cơ cấu.
    Ưu tiên của Trung Quốc trong việc không tiết lộ các điều khoản cho vay và tái đàm phán trên căn bản song phương có thể giúp họ bảo vệ lợi ích kinh tế của họ trong ngắn hạn, nhưng nó cũng có thể làm chệch hướng các nỗ lực tái cấu trúc bằng cách làm suy yếu hai yếu tố nền tảng của bất kỳ tiến trình nào như vậy: Tính minh bạch và khả năng so sánh cách xử lý, khi ý tưởng cho rằng, tất cả chủ nợ sẽ chia sẻ gánh nặng một cách công bằng và được đối xử như nhau.
    Không cần nhiều nợ song phương bị che đậy để gây ra một cuộc khủng hoảng tín dụng.
Chính sách cho vay của Quỹ Tiền tệ Quốc tế đối với những tình huống nợ khó khăn mờ ám, phát triển qua nhiều thập niên, ngày càng linh hoạt hơn để Quỹ có thể cho vay và “nguồn tham khảo” trong việc tái cơ cấu nợ. Nhưng, mặc dù Quỹ Tiền tệ Quốc tế phù hợp với vai trò này khi các chủ nợ là thành viên của Câu lạc bộ Paris và thậm chí là các quỹ phòng hộ trái phiếu có chủ quyền, Quỹ không có vị thế tốt để đối phó với Trung Quốc. Hơn nữa, cơ chế mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các chủ nợ phương Tây phát triển để giảm bớt cuộc khủng hoảng nợ công ngày càng tồi tệ giữa các nước thuộc về SK/VĐ&CĐ là không đủ.
    Năm 2020, G-20 thiết lập Khuôn khổ chung nhằm kết hợp Trung Quốc và các bên cho vay song phương khác vào tiến trình tái cấu trúc của Câu lạc bộ Paris với sự giám sát và hỗ trợ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Nhưng Khuôn khổ chung này đã không hoạt động. Ethopia, Ghana và Zambia đều nộp đơn xin cứu trợ thông qua cơ chế này, nhưng đàm phán diễn ra hết sức chậm chạp và chỉ có Zambia đạt được thỏa thuận với các chủ nợ. Hơn nữa, điều khoản của thỏa thuận đó không gây ấn tượng cho Zambia, các chủ nợ chính thức không phải là Trung Quốc và quan trọng nhất là đối với triển vọng tái cấu trúc trong tương lai.
    Theo thỏa thuận đạt được hồi tháng 6/2023, nợ chủ nợ chính thức của Zambia đã được điều chỉnh, giảm từ 8 tỷ xuống còn 6,3 tỷ sau khi một khoản vay thuộc về SK/VĐ&CĐ được phân loại lại là thương mại (mặc dù nó được bảo hiểm tín dụng xuất khẩu do nhà nước Trung Quốc hỗ trợ). Hơn nữa, thỏa thuận này chỉ có thể tạm thời làm giảm các khoản thanh toán lãi suất của Zambia đối với khoản nợ chính thức. Nếu Quỹ Tiền tệ Quốc tế kết luận rằng, nền kinh tế Zambia cải thiện vào cuối chương trình của Quỹ vào năm 2026, sự quan tâm của nước này đối với các khoản tín dụng chính thức sẽ tăng trở lại. Điều đó tạo ra một loạt ưu đãi đáng kể cho chính phủ Zambia, mà chi phí vốn sẽ tăng lên nếu uy tín về tín dụng được cải thiện và có thể gây ra rạn nứt giữa Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Trung Quốc trong tương lai. Kết quả này không đáng ngạc nhiên: Khuôn khổ chung cung cấp củ cà rốt cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế, nhưng thiếu một cây gậy để đối phó với một chủ nợ ngoan cố, đặc biệt là với Trung Quốc, một chủ nợ có đòn bẩy địa chính trị đối với các nước đi vay.
    Một sáng kiến khác nhằm giảm bớt cuộc khủng hoảng nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ đang âm ỉ là chương trình cho vay thành nợ chính thức của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Về lý thuyết, chương trình này cho phép Quỹ Tiền tệ Quốc tế tiếp tục cho vay đối với một nước đi vay đang gặp khó khăn, ngay cả khi một chủ nợ song phương từ chối cung cấp cứu trợ, nhưng nó đã được chứng minh không hiệu quả. Tại Zambia, Trung Quốc nắm giữ hơn một nửa số nợ chính thức, khiến Quỹ Tiền tệ Quốc tế gặp nhiều rủi ro khi mở rộng tài trợ bổ sung. Ngay cả trong trường hợp Trung Quốc không nắm giữ phần lớn nợ chính thức, Trung Quốc chỉ đơn giản là có quá nhiều đòn bẩy kinh tế đối với các nước đi vay có liên hệ với Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và nhân viên và lãnh đạo của Quỹ sẽ luôn thận trọng khi cố gắng giải quyết xung đột giữa các quốc gia thành viên.
    Đến khi nào Quỹ Tiền tệ Quốc tế còn tiếp tục thận trọng như vậy, Bắc Kinh sẽ tiếp tục sử dụng đòn bẩy của mình để gây áp lực buộc Quỹ hỗ trợ nước đi vay, ngay cả khi Quỹ không có tầm nhìn toàn diện về tình trạng lâm nợ đối với Trung Quốc. Để ngăn chặn các việc tái cơ cấu nợ trong tương lai trở nên khó khăn như những gì đang diễn ra ở Ethiopia, Sri Lanka và Zambia, Quỹ Tiền tệ Quốc tế cần thực hiện cải cách thực chất, bằng cách tăng cường thực thi yêu cầu về tính minh bạch đối với các nước thành viên và thực hiện một phương sách thận trọng hơn trong việc cho vay đối với những nước đi vay đang ngập nợ nặng nề trong SK/VĐ&CĐ. Một sự điều chỉnh tiến trình như vậy khó có thể bắt nguồn từ bên trong của Quỹ Tiền tệ Quốc tế; nó sẽ phải đến từ Hoa Kỳ và các thành viên quan trọng khác thuộc hội đồng quản trị.
 
Những người học chậm và những người cho vay nhanh
 
Một số nhà phân tích lập luận rằng, Trung Quốc đang trải qua một “tiến trình học hỏi” với tư cách là một người thu hồi nợ, các định chế cho vay của Trung Quốc bị phân hoá và quá trình xây dựng sự hiểu biết, lòng tin và phản ứng có tổ chức đối với khủng hoảng nợ cần có thời gian và sự hợp tác. Vấn đề là, các chủ nợ phương Tây nên linh hoạt trong khi Bắc Kinh phát triển sang vai trò mới của họ và Quỹ Tiền tệ Quốc tế nên tiếp tục cắt giảm kiểm tra trong thời gian chờ đợi.
    Nhưng sự kiên nhẫn sẽ không giải quyết được vấn đề vì các ưu đãi của Trung Quốc (và của bất kỳ chủ nợ nào khác) không phù hợp với những ưu đãi của Quỹ Tiền tệ Quốc tế hoặc các chủ nợ muốn nhanh chóng đàm phán trong việc tái cơ cấu nợ. Đây là lý do tại sao Quỹ Tiền tệ Quốc tế phải thực thi nghiêm ngặt các yêu cầu bắt buộc các nước thành viên phải minh bạch về nghĩa vụ nợ của họ.
    Hơn nữa, ngay cả khi bối cảnh cho vay của Trung Quốc bị phân hoá, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các thành viên của Câu lạc bộ Paris nên đối xử với chính phủ Trung Quốc như là các thực thể nhà nước có khả năng tổ chức và cung cấp phản ứng cấp nhà nước trong việc tái cơ cấu nợ. Bắc Kinh dường như có khả năng làm như vậy trong các cuộc tái đàm phán nợ trên căn bản song phương. Ví dụ, năm 2018, Zambia công bố kế hoạch tái cơ cấu nợ song phương với Trung Quốc, và trì hoãn các dự án về SK/VĐ&CĐ đang tiến hành, vì có các lo ngại về nợ. Nhưng sau cuộc họp với đại sứ Trung Quốc tại Zambia, Tổng thống Edgar Lungu đảo ngược hướng đi và nói rằng, sẽ không có sự gián đoạn nào đối với các dự án do Trung Quốc tài trợ, điều này cho thấy, Bắc Kinh có thể phối hợp với một số doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng nhà nước Trung Quốc để ngăn chặn một vụ bùng nổ. Nếu Trung Quốc có thể làm như vậy trên cơ sở song phương, họ cũng có thể làm như vậy trên bình diện đa phương.
    Một nhược điểm của việc điều chỉnh phương sách của Quỹ Tiền tệ Quốc tế đối với khủng hoảng nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ là Quỹ sẽ trì trệ, ngăn không cho Quỹ phản ứng nhanh chóng với những cuộc khủng hoảng mới. Đây rõ ràng là một sự đánh đổi. Quỹ Tiền tệ Quốc tế không thể hoạt động như một người cho vay rõ ràng của phương sách cuối cùng và một người thực thi các tiêu chuẩn về tính minh bạch và khả năng so sánh. Quỹ phải có khả năng và sẵn sàng từ chối hỗ trợ tín dụng khi các yêu cầu của Quỹ không được đáp ứng. Những người đóng thuế không phải người Trung Quốc tài trợ cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế, không nên thấy tiền của họ trả cho các quyết định cho vay tồi tệ của Trung Quốc.
 
Tốt cho Quỹ và thế giới
 
Các thành viên của G-7 và Câu lạc bộ Paris có một số lựa chọn để giải quyết các cuộc khủng hoảng nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ. Thứ nhất, Mỹ và các chủ nợ song phương khác có thể hỗ trợ các nước đi vay thuộc về SK/VĐ&CĐ phối hợp với nhau. Làm như vậy, sẽ giúp cải thiện được tính minh bạch, tăng cường chia sẻ thông tin và cho phép các nước đi vay đàm phán với các chủ nợ Trung Quốc như một nhóm, thay vì trên căn bản song phương. Phương sách của Trung Quốc trong việc tiến hành đàm phán lại một cách bí mật và song phương, gây bất lợi cho những nước đi vay để thực hiện SK/VĐ&CĐ, cũng như các chủ nợ khác, gồm Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới.
    Thứ hai, Quỹ Tiền tệ Quốc tế nên thiết lập tiêu chí rõ ràng mà những nước đi vay để thực hiện SK/VĐ&CĐ đang gặp khó khan, phải đáp ứng trước khi họ có thể nhận được tín dụng mới từ Quỹ. Các tiêu chí này phải được một số thành viên trong Hội đồng Quản trị Quỹ Tiền tệ Quốc tế đồng ý để nhân viên và lãnh đạo của Quỹ tránh khỏi việc xung đột với Trung Quốc, họ cũng là một thành viên quan trọng trong Hội đồng Quản trị của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Tính minh bạch liên quan đến các khoản nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ không phải là lĩnh vực duy nhất mà các tiêu chí này cần giải quyết. Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng nên đặt ra các tiêu chí rõ ràng hơn về khoản vay thuộc về SK/VĐ&CĐ nào sẽ được coi là tín dụng chính thức, trái ngược với các khoản tín dụng thương mại.
    Trung Quốc tuyên bố rằng, một số khoản vay quan trọng thuộc về SK/VĐ&CĐ là các khoản vay thương mại, không phải các khoản vay chính thức vì chúng được định giá theo lãi suất thị trường, mặc dù chúng đến từ các tổ chức cho vay thuộc sở hữu nhà nước như Ngân hàng Phát triển Trung Quốc. Quỹ Tiền tệ Quốc tế xem xét các câu hỏi phân loại này tuỳ theo từng trường hợp. Nhưng cách này tỏ ra không khả thi, vì nó cho phép các kịch bản như Zambia, trong đó một phần đáng kể, nợ chính thức đột nhiên trở thành thương mại chỉ trong một sớm một chiều, nó cho phép Trung Quốc tìm kiếm các điều khoản tốt hơn. Một phương cách đặc biệt tương tự của QTTQT có thể sẽ dẫn đến các trò chơi đấu đá và xung đột tương tự trong các cuộc đàm phán về tái cấu trúc trong tương lai. QTTQT chỉ cần làm rõ những định chế cho vay nào thuộc về SK/VĐ&CĐ, sẽ được coi là chủ nợ chính thức trong bất kỳ tiến trình tái cơ cấu nào.
    Theo một số chương trình gần đây của QTTQT, những nước đi vay tiếp tục trả nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ, thông qua các doanh nghiệp nhà nước của họ trong khi được giảm nợ ở cấp độ quốc gia. Đối với QTTQT, cách duy nhất để ngăn chặn hành vi này là, yêu cầu nước đi vay xác định và cam kết, bao gồm tất cả các khoản nợ doanh nghiệp có nhà nước bảo lãnh, trong tiến trình tái cơ cấu. Nếu không, những người cho vay thuộc về SK/VĐ&CĐ sẽ chỉ đơn giản chọn lọc các khoản vay thuộc về doanh nghiệp nhà nước nào họ muốn đưa vào tái cơ cấu, dựa trên việc họ nghĩ rằng họ có thể có được một thỏa thuận tốt hơn thông qua tái cơ cấu, hay thông qua tái đàm phán song phương.
    Yêu cầu các nước gặp khó khăn phải đáp ứng các tiêu chí này trước khi họ nhận được các khoản tín dụng mới, khiến QTTQT kém linh hoạt hơn và hạn chế khả năng phản ứng nhanh chóng với các cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán. Nhưng nó sẽ cung cấp cho nước đi vay và ngành tài chính quốc gia có sự rõ ràng và chắc chắn cần thiết về các yêu cầu can thiệp của QTTQT. Nó cũng sẽ đưa nhân viên và lãnh đạo của Quỹ ra khỏi các cuộc xung đột tái diễn với Trung Quốc trong mỗi lần tái cơ cấu nợ.
    Một số người chắc chắn sẽ đóng khung những cải cách như vậy là “bài Hoa”. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng chỉ đơn giản là những bước cần thiết để bảo vệ nguyên tắc minh bạch và so sánh trong việc tái cơ cấu nợ thuộc về nhà nước. Các nước phương Tây phải có khả năng đứng lên bảo vệ yếu tố chính của một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ khi họ bị đe dọa trong khi vẫn hợp tác với Trung Quốc, mà họ là thành viên quan trọng của trật tự đó.
    Cuối cùng, những cải cách này là cách duy nhất để bảo vệ QTTQT thoát khỏi hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ. Các xung đột của QTTQT với nợ thuộc về SK/VĐ&CĐ sẽ tiếp tục cản trở các nỗ lực giảm nợ, làm suy yếu tinh thần lành mạnh về kinh tế của các nước đang phát triển, đang mắc nợ và hiệu quả của QTTQT. Chỉ có cải cách QTTQT mới có thể đảo ngược thiệt hại – đối với các nước đang phát triển và đối với QTTQT.

 

Foreign Affairs

 

-- Michael Bennon và Francis Fukuyama

Đỗ Kim Thêm dịch

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.