Hôm nay,  

Tại sao nền kinh tế Trung Quốc sẽ không thể phục hồi

01/09/202300:00:00(Xem: 1632)
 
kinh te trung quoc
Hình chụp lại từ tạp chí The Economist.
 
Một chính quyền ngày càng chuyên quyền độc đoán đang phạm phải những sai lầm nghiêm trọng
 
Sau khi Trung Quốc gia nhập kinh tế thế giới vào năm 1978, đất nước này đã trở thành câu chuyện tăng trưởng ngoạn mục nhất trong lịch sử. Cải cách nông nghiệp, công nghiệp hóa, thu nhập gia tăng đã đưa gần 800 triệu người lúc đó thoát khỏi cảnh nghèo đói cùng cực. Sản xuất chỉ bằng 1/10 so với Hoa Kỳ vào năm 1980, nền kinh tế Trung Quốc hiện nay có quy mô bằng khoảng 3/4. Tuy nhiên, thay vì quay trở lại con đường tăng trưởng sau khi chính quyền Cộng sản Trung Quốc (CSTQ) từ bỏ chính sách “Zero-Covid” vào cuối năm 2022, nó lại đang có triệu chứng chao đảo từ bờ mương này sang bờ mương khác.
   
Kinh tế tăng trưởng với tốc độ hằng năm đạt được chỉ 3,2% trong quý hai, một thất vọng to lớn cho nhà cầm quyền. Chỉ số này xem ra còn tồi tệ hơn khi so sánh với tốc độ tăng trưởng gần 6% của Hoa Kỳ. Thị trường địa ốc tụt giá trầm trọng khiến người mua nhà đâm ra sợ hãi. Chi tiêu của giới tiêu thụ, đầu tư kinh doanh và xuất khẩu đều giảm. Và trong khi phần lớn thế giới phải chống chọi với tình trạng lạm phát quá cao thì Trung Quốc gặp phải vấn đề ngược lại: giá tiêu dùng giảm trong năm tính đến tháng 7. Một số phân tích viên cảnh báo rằng Trung Quốc có thể rơi vào cái bẫy giảm phát giống như Nhật Bản vào thập niên ’90.
   
Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó, so sánh với Nhật Bản là một chẩn đoán quá nhẹ nhàng về những căn bệnh kinh tế của Trung Quốc. Tình trạng tăng trưởng chậm trường kỳ sẽ còn tồi tệ hơn ở Trung Quốc vì người dân trở nên nghèo hơn. Mức sống của dân Nhật vào năm 1990 là khoảng 60% của Hoa Kỳ; của Trung Quốc ngày nay là dưới 20%. Và, không giống như Nhật Bản, Trung Quốc đang phải chịu đựng nhiều vấn đề sâu đậm hơn ngoài yếu tố cung cầu không cân bằng và nợ nần chồng chất. Nhiều thách thức của Trung Quốc xuất phát từ những thất bại nghiêm trọng hơn trong hoạch định chính sách kinh tế – vốn ngày càng trở nên tồi tệ hơn sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình tập trung quyền lực vào trung ương.
   
Khoảng một thập kỷ trước, các nhà kỹ trị (1) Trung Quốc được xem là những nhà bác học. Thoạt tiên họ chủ trì một kỳ quan kinh tế. Khi đó, Trung Quốc là nền kinh tế lớn duy nhất ứng phó được với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-09 với đầy đủ lực lượng kích thích kinh tế – một số bình luận gia còn đi xa hơn khi nói rằng Trung Quốc đã cứu nền kinh tế thế giới ra khỏi một cuộc suy thoái trầm trọng. Trong những năm đầu của thiên niên kỷ III, mỗi khi kinh tế chao đảo, nhà cầm quyền Trung Quốc đã bất chấp dự đoán về một thảm họa có thể xảy ra bằng cách giảm giá tín dụng, xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc kích thích thị trường bất động sản.
   
Tuy nhiên, trong mỗi thời kỳ này, các khoản nợ công cũng như tư ngày càng chồng chất. Từ đó, phát sinh những nghi ngờ về tính bền vững của thị trường địa ốc, thêm vào đó, câu hỏi được đặt ra là những cơ sở hạ tầng mới có thực sự cần thiết không. Ngày nay các nhà hoạch định chính sách đang ở trong tình thế khó khăn. Một cách khôn ngoan, họ không muốn nuôi thêm một đàn “bạch tượng” (2) hoặc thổi lại cái bong bóng bất động sản. Họ cũng không thể thực hiện đến nơi đến chốn các biện pháp kích thích kinh tế đáng cần thiết hơn, chẳng hạn như tăng lương hưu và trợ cấp cho các hộ gia đình nghèo để thúc đẩy tiêu dùng, bởi vì ông Tập từ đầu đã không chấp thuận “chủ nghĩa phúc lợi” (3) cho người dân, chính phủ hài lòng với mức thâm hụt chính thức là 3% tổng sản lượng nội địa (GDP).
   
Kết quả, phản ứng trước tình trạng suy thoái trở nên thụ động, chẳng có gì đáng kể. Các nhà hoạch định chính sách thậm chí không thèm cắt giảm lãi suất nhiều. Hôm 21 tháng 8, họ đã khiến các nhà đầu tư thất vọng khi cắt giảm vẻn vẹn 0,1 điểm phần trăm trong lãi suất cho vay với kỳ hạn một năm.
   
Phản ứng yếu ớt trước tình trạng tăng trưởng sụt giảm và giảm phát này là sai lầm mới nhất trong một loạt sai lầm về chính sách. Chính sách đối ngoại vênh váo của Trung Quốc và chính sách công nghiệp theo chủ nghĩa trọng thương đã làm trầm trọng thêm cuộc xung đột kinh tế với Hoa Kỳ. Đối nội, họ đã không giải quyết thỏa đáng các động cơ khuyến khích đầu tư vào nhà cửa và một hệ thống trong đó các nhà phát triển và xây dựng có những trách nhiệm ở tầm mức quan trọng trên mặt hệ thống. Bắt đầu từ năm 2020, quản lý nhà nước đã thắt chặt thị trường bằng cách trấn áp các công ty công nghệ tiêu dùng thành công, các công ty này bị cho là quá vọng động và độc quyền khiến nhà nước không kiểm soát được. Trong đại dịch COVID-19, các quan chức đã “câu giờ” bằng cách khóa cửa, cách ly, nhưng không sử dụng thời gian khóa cửa để tiêm chủng cho đủ số người nhằm có một lối thoát khả dĩ êm thắm, và sau đó bị choáng ngợp bởi biến thể Omicron rất dễ lây lan.
   
Tại sao chính quyền CSTQ liên tục mắc phải những sai lầm ấy? Một lý do là tăng trưởng ngắn hạn không còn là ưu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nữa. Các dấu hiệu cho thấy ông Tập tin rằng Trung Quốc phải chuẩn bị cho một cuộc xung đột kinh tế và rất có thể cả quân sự kéo dài với Hoa Kỳ. Do đó, ngày nay ông ta nhấn mạnh việc Trung Quốc theo đuổi sự nghiệp vĩ đại của mình, trong đó vấn đề an ninh và khả năng phục hồi quốc gia là hàng đầu. Ông ta sẵn sàng hy sinh vật chất để đạt những mục tiêu đó, và ông ta muốn sự tăng trưởng nào cũng phải có “chất lượng cao”.
   
Tuy nhiên, ngay cả theo tiêu chí của ông Tập, các quyết định của ĐCSTQ vẫn có sai sót. Sự sụp đổ của chính sách Zero-Covid đã làm suy yếu uy tín của Tập. Tấn công vào các công ty công nghệ chỉ khiến các doanh nhân sợ hãi. Trung Quốc rơi vào tình trạng giảm phát dai dẳng chỉ vì chính quyền từ chối thúc đẩy tiêu dùng, các khoản nợ sẽ tăng giá trị thực và đè nặng hơn nữa lên nền kinh tế. Trên hết, trừ khi ĐCSTQ tiếp tục nâng cao mức sống, khả năng nắm quyền của họ sẽ bị suy yếu và khả năng sánh ngang với Hoa Kỳ sẽ bị giới hạn.
   
Do đó, những thất bại liên tiếp về chính sách ngày càng hiện rõ là những quyết định sai kém  hơn là những bước thay đổi trong quyết sách mới tập trung vào an ninh quốc gia. Chúng trùng hợp với việc Tập Cận Bình tập trung quyền lực và thay thế các nhà kỹ trị bằng những người trung thành với chế độ trong các chức vụ cấp cao. Trung Quốc từng chấp thuận những cuộc tranh luận về nền kinh tế của mình, nhưng ngày nay họ dung túng các phân tích viên lạc quan giả hiệu. Gần đây, họ cho ngừng công bố những dữ liệu không mấy tốt đẹp về tỷ lệ thất nghiệp của giới thanh niên và niềm tin của người tiêu dùng. Những chức vụ cấp cao nhất trong guồng máy cai trị nhà nước vẫn còn nhiều nhân tài, nhưng thật ngây thơ khi mong đợi bộ máy quan liêu này đưa ra những phân tích hợp lý hoặc những ý tưởng sáng tạo khi thông điệp từ trung ương đưa xuống là: Trung thành trên hết. Thay vào đó, các quyết định ngày càng bị chi phối bởi một hệ tư tưởng kết hợp giữa sự nghi ngờ của cánh tả đối với các doanh nhân giàu có với sự miễn cưỡng của cánh hữu trong việc đưa tiền cho người nghèo ngồi không.
   
Thực chất, các vấn đề của Trung Quốc có nguồn gốc từ trên cao, điều đó có nghĩa là chúng sẽ tồn tại một cách khá dai dẳng. Thậm chí các vấn đề có thể trở nên tồi tệ hơn khi các nhà hoạch định chính sách vụng về phải đối đầu với những thách thức ngày càng gia tăng của nền kinh tế. Dân số đang già đi nhanh chóng. Hoa Kỳ ngày càng tỏ ra thù địch và đang cố gắng bóp nghẹt các bộ phận hệ trọng của kinh tế Trung Quốc, như sản xuất “chip” điện tử mà Trung Quốc xem là có ý nghĩa chiến lược. Trung Quốc càng cố gắng bắt kịp Hoa Kỳ, khoảng cách càng khó thu hẹp hơn, bởi vì các nền kinh tế tập trung chỉ có khả năng bắt chước, chứ không có nhiều sáng kiến.
   
Những dự đoán về một Trung Quốc dân chủ tự do cho đến nay hiện nguyên hình là những suy nghĩ hoang tưởng. Vào những năm 2000, các nhà lãnh đạo phương Tây đã lầm tưởng rằng thương mại, thị trường và tăng trưởng sẽ thúc đẩy dân chủ và tự do cá nhân ở Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc hiện đang thử nghiệm một quyết sách ngược lại. Câu hỏi được đặt ra là: Liệu chế độ chuyên chế nhiều hơn có gây thiệt hại cho nền kinh tế hay không? Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy câu trả lời là có – và sau bốn thập kỷ tăng trưởng nhanh chóng, Trung Quốc đang bước vào thời kỳ thất vọng.
 
(Bài báo trên đăng trong chuyên mục “Leaders” của tạp chí The Economist. Không có tên tác giả ở cuối bài. Chúng ta có thể xem đó là một trong những bài của ban chủ biên The Economist. Trịnh Khải Nguyên-Chương dịch.)
 
Chú thích của người dịch:
 
(1)   Kỹ trị: Tạm dịch từ thuật ngữ technocrat, tức là những nhà chuyên môn làm việc trong guồng máy cai trị.
(2)   “White elephant/ Bạch tượng”, cụm từ sử dụng trong nguyên tác là một hoán dụ ám chỉ cái gì tốn kém giữ gìn nhưng chẳng có giá trị thực tiễn nào.
(3)   Chủ nghĩa phúc lợi/ “Welfarism”, là chính sách trợ giúp người nghèo ở các quốc gia tiên tiến. Chính sách này đã giúp đỡ rất nhiều bà con người Việt tị nạn ở Mỹ, nhất là trong thời gian đầu mới định cư. Tập Cận Bình chủ trương rằng chính sách này chỉ khiến người dân trở nên lười biếng, chỉ biết hưởng lợi ích từ nhà nước ban cho mà không chịu làm việc, nên ông ta nhất quyết không bao giờ áp dụng chính sách ấy tại Trung Quốc.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.