Tiểu thuyết...
-- Milan Kundera
(Trích đoạn tiểu thuyết Đời nhẹ khôn kham -- Trịnh Y Thư dịch)
Như tôi thuật ở phần một, ngay hôm Tereza đột ngột đến thăm Tomas ở Praha, hay đúng hơn ngay giây phút đầu tiên gặp gỡ, anh đã làm tình với cô. Nhưng sau đó cô lên cơn sốt nặng. Lúc cô nằm trên giường anh đứng bên cạnh nhìn cô, anh không sao gạt bỏ được ý nghĩ cô là đứa trẻ ai đó đặt trong chiếc thúng cói rồi đẩy xuống dòng nước trôi giạt đến chân anh.
Từ lúc đó anh thấy lòng mình yêu mến lạ lùng hình ảnh đứa bé sơ sinh bị bỏ rơi, và anh thường liên tưởng chuyện ấy đến những huyền thoại cổ. Hiển nhiên, với ý tưởng này trong đầu anh đi mua bản dịch cuốn Oedipus của Sophocles.
Không ai không biết chuyện Oedipus: bị bỏ rơi khi mới lọt lòng, chàng được vua Polybus đem về nuôi nấng. Một hôm, khi đã lớn khôn, chàng chạm trán một nhân vật quyền quý cưỡi ngựa trên núi. Đôi bên đi đến chỗ xung đột và Oedipus giết chết nhân vật nọ. Về sau chàng lấy hoàng hậu Jocasta làm vợ và trở thành chúa tể Thebes. Chàng không hề biết người chàng giết chết trên núi chính là cha chàng và người đàn bà chàng ngủ chung hằng đêm là mẹ đẻ ra mình. Trong lúc đó, định mệnh giáng xuống thần dân chàng trận dịch tai ương khủng khiếp. Khi Oedipus biết ra chính mình là nguyên nhân nỗi thống khổ của thần dân, chàng tự chọc mù hai mắt rồi bỏ thành Thebes ra đi.
2
Người nào nhận định các chế độ Mafia chính trị đơn thuần chỉ là những tổ chức ăn cướp, người ấy không nhìn ra sự thật hết sức cơ bản: bọn cầm đầu các chế độ ăn cướp đó không phải bọn cướp, chúng là những kẻ cuồng nhiệt bám chắc vào niềm tin chúng tìm ra con đường duy nhất đưa con người đến Thiên đàng. Chúng kiên quyết bảo vệ con đường đó, đến nỗi không ngần ngại giết hại không biết bao nhiêu mạng người. Dần dà về sau, khi Thiên đàng chỉ là ảo vọng, bọn người cuồng nhiệt kia trở thành lũ sát nhân.
Lúc đó, mọi người đồng loạt lên án chính quyền: Chính các ông đã đưa đất nước đến chỗ khốn cùng (càng ngày càng nghèo đói và điêu tàn); chính các ông đã làm mất nước (quốc gia rơi vào tay người Nga); các ông là lũ sát nhân hợp pháp!
Những kẻ bị kết tội phản đối: Nào chúng tôi hay biết gì đâu! Chúng tôi bị lừa gạt! Chúng tôi đầy lòng tin chân thành! Tận thâm tâm chúng tôi vô tội!
Cuối cùng, cuộc tranh luận thu hẹp lại còn câu hỏi duy nhất: Có thật họ không hề hay biết hay chỉ cố tình lấp liếm che đậy tội lỗi?
Tomas (cũng như mười triệu người dân Czech khác) theo dõi thật sát cuộc tranh luận, và anh có ý kiến riêng. Anh nghĩ chắc chắn phải có những người biết rất rõ về những tội ác xảy ra (làm sao họ không biết những tội ác kinh khủng xảy ra và vẫn đang tiếp diễn trong thời hậu cách mạng ở Nga), nhưng có lẽ đa phần những người khác không hay biết gì.
Nhưng, anh nói với chính mình, dù họ biết hay không, vấn đề chính đặt ra ở đây là người không biết có tội hay vô tội? Thằng khùng ngồi trên ngai vàng được tha thứ mọi tội lỗi chỉ vì hắn là thằng khùng ư?
Chúng ta hãy thử nêu trường hợp như sau: Thời gian đầu thập niên kỉ 50, công tố viện Czech đòi lên án tử hình một người dân vô tội chỉ vì công tố bị mật thám Nga và chính nhà nước Czech lừa gạt. Nhưng giờ đây tất cả chúng ta đều biết rõ lời cáo buộc đó thật ra phi lí và người dân vô tội kia chết oan, nhưng thử hỏi ông công tố viên đó làm sao có thể tự biện minh cho lòng thanh khiết của mình bằng cách tự đấm tay lên ngực và tuyên bố rằng, “Lương tâm tôi trong sạch! Tôi không biết! Tôi chỉ là người có lòng tin!” Phải chăng chính cái “Tôi không biết! Tôi chỉ là người có lòng tin!” là căn nguyên của tội lỗi không sao cứu vãn của ông ta.
Tomas liên tưởng điều này đến huyền thoại Oedipus: Oedipus không biết chàng ngủ với chính mẹ ruột mình, tuy vậy khi biết ra sự thật, chàng không thấy mình vô tội. Không ngăn được nỗi đau đớn khi nhìn cảnh tượng tang thương do cái “không biết” của mình đem lại, chàng tự chọc mù hai mắt rồi bỏ thành Thebes ra đi.
Khi Tomas nghe người ta lớn tiếng biện minh cho lòng thanh khiết của họ, anh nhủ thầm: Chỉ vì cái “không biết” của bọn các ông, đất nước này mất tự do, có lẽ cả thế kỉ, vậy mà các ông bảo các ông vô tội được ư? Lương tâm các ông không bị cắn rứt khi nhìn cảnh đất nước hôm nay là do chính tay các ông gây nên sao? Các ông không thấy kinh hoàng à? Các ông mù mắt cả rồi ư? Nếu chưa mù, các ông nên tự móc mắt mình rồi bỏ Thebes mà đi cho khuất!
Anh tâm đắc với sự so sánh đó lắm và anh thường đem ra chia sẻ với bằng hữu xung quanh. Càng ngày ý tưởng anh trình bày càng chuẩn xác và chuốt lọc.
Cũng như tất cả các thành phần trí thức khác lúc đó, anh thường xuyên theo dõi tờ báo tuần do hội Nhà văn Czech ấn hành mỗi kì ba trăm ngàn số. Tờ báo khá độc lập với chế độ và thường xuyên nêu lên những vấn đề bị xem là cấm kị.
Dù vậy tờ báo cũng chỉ lặp lại câu hỏi: Những người lãnh đạo biết hay không biết? Tomas thấy câu hỏi này không đáng bàn tới, vì thế một hôm anh bỏ ra cả ngày trời cặm cụi viết xuống những ý tưởng về Oedipus anh ấp ủ bấy lâu và gửi bài viết đến tờ báo. Một tháng sau anh nhận được thư phúc đáp: họ mời anh đến tòa soạn. Biên tập viên tờ báo tiếp chuyện anh có dáng người thấp bé nhưng thẳng băng như cây thước kẻ. Ông đề nghị Tomas thay đổi vị trí đôi ba từ ngữ trong một câu văn. Sau đó ít hôm, bài báo xuất hiện – trên trang áp chót, trong mục Thư Bạn Đọc.
Tomas chẳng thấy vui chút nào. Họ bỏ thời gian mời anh đến tòa soạn xin anh ưng thuận thay đổi vị trí đôi ba từ ngữ trong một câu văn, nhưng rồi không thèm hỏi anh thêm, họ tự tiện cắt bỏ bài viết đến nỗi văn bản giảm xuống chỉ còn cái sườn căn bản (khiến bài viết trở nên giản lược và mang giọng điệu gây hấn). Anh chán nản, không thèm để tâm đến nữa.
Chuyện đó xảy ra vào mùa Xuân 1968. Alexander Dubček vẫn còn tại chức cùng những người thấy mình có tội và sẵn sàng làm điều gì đó để chuộc tội. Thế nhưng những người khác, những người vẫn gào thét tự xưng là vô tội, họ sợ bị đem ra trừng trị trước pháp luật nếu có ngày toàn dân nổi cơn phẫn uất, và ngày nào họ cũng đến cầu khẩn tòa đại sứ Nga xin người Nga can thiệp. Khi lá thư Tomas xuất hiện trên mặt báo, họ hô hoán: Đấy, thấy chưa! Bây giờ họ còn công khai đòi chúng tôi phải tự móc mắt ra!
Hai ba tháng sau, người Nga quyết định phải chặn đứng ngay trò tự do ngôn luận này, và một đêm họ đưa quân sang quê hương Tomas.
3
Khi Tomas từ Zürich về Praha, anh vẫn làm việc trong bệnh viện như cũ. Một hôm ông bác sĩ trưởng khoa phẫu thuật gọi anh vào phòng nói chuyện.
Ông bảo anh, “Cả anh lẫn tôi đều biết rõ anh không phải là nhà văn, cũng chẳng phải nhà báo hay người đứng lên cứu nguy đất nước. Anh là một bác sĩ, một nhà khoa học. Tôi buồn lắm nếu mất anh và tôi sẽ làm bất cứ điều gì trong phạm vi khả năng của tôi để giữ anh lại đây. Nhưng anh phải lên tiếng phủ nhận bài báo anh viết về Oedipus. Với anh điều đó có ý nghĩa trọng đại lắm không?”
“Nói thật với ông, tôi thấy nó hết sức trọng đại.” Tomas vừa trả lời vừa nhớ lại bài viết của mình bị cắt bỏ cả một phần ba như thế nào.
“Anh biết chuyện bất tường sẽ xảy đến cho anh nếu anh không khứng chịu?”
Anh biết chứ. Đem hai sự việc đặt lên cán cân: một bên là danh dự (anh từ chối không chịu rút lại lời nói) và một bên là cái anh gọi là ý nghĩa đời sống (công việc anh đang làm trong ngành y tế.)
Ông bác sĩ trưởng khoa nói tiếp: “Do áp lực người ta phải công khai rút lại một lời tuyên bố trong quá khứ – nghe cứ như đang ở thời Trung cổ không bằng. Nhưng 'rút lại' lời mình nói nghĩa là gì? Làm sao người ta có thể biện minh một cách rạch ròi điều mình nói lúc trước bây giờ lại không còn giá trị gì nữa? Ở thời đại này, ý tưởng chỉ có thể bị bác bỏ chứ không thể rút lại. Và bởi lẽ chúng ta không thể rút lại ý tưởng, thành thử nó chỉ là một câu nói suông, một trò ma thuật theo nghi lễ cho ra vẻ chính thống, tôi thiết tưởng anh nên làm vừa lòng họ. Trong một xã hội cai trị bằng bạo lực, không ai buồn quan tâm đến một câu nói đâu. Toàn những tuyên bố bị ép buộc, và mỗi người dân lương thiện đều phải có bổn phận gác bỏ ngoài tai những lời nói đó. Để kết luận, tôi mong anh nghĩ đến tôi, đến những bệnh nhân mà ở lại với chúng tôi.”
“Ông nói rất đúng, tôi biết chắc như vậy.” Mặt Tomas bỗng buồn rười rượi.
“Nhưng?” ông bác sĩ trưởng khoa cố dò xét ý nghĩ của anh.
“Tôi sợ không nhìn được mặt ai.”
“Không nhìn được mặt ai? Anh coi trọng đồng nghiệp anh đến nỗi anh sợ họ nghĩ xấu về anh à?”
“Không, tôi chẳng coi trọng họ đến mức đó đâu,” Tomas trả lời.
“À, nhân tiện nói thêm cho anh rõ là anh không phải công khai lên tiếng. Họ bảo đảm với tôi như thế. Họ là bọn quan liêu. Họ chỉ cần nắm tờ giấy trong hồ sơ chứng minh anh không chống chế độ để phòng ngừa trường hợp có kẻ chỉ trích họ cho phép anh làm việc trong bệnh viện. Họ hứa không để lọt ra ngoài. Họ không có ý đồ phổ biến một chữ một lời nào.”
“Ông cho tôi một tuần lễ để suy nghĩ,” Tomas trả lời và câu chuyện tạm yên.
4
Trong bệnh viện, Tomas được xem là bác sĩ giỏi nhất khoa phẫu thuật. Có lời đồn đại ông bác sĩ trưởng khoa sắp đến tuổi về hưu và anh sẽ được ông cất nhắc lên thế chỗ. Khi lời đồn đó cộng hưởng với lời đồn anh bị nhà nước yêu cầu tự kiểm thảo, mọi người chắc mẩm anh sẽ ngoan ngoãn vâng lời thôi.
Đó là điều thứ nhất đập vào anh: mặc dù anh chưa bao giờ phạm điều gì khiến người khác phải nghi ngờ tính liêm khiết của mình, nhưng anh thấy người ta sẵn sàng nghĩ xấu về anh.
Điều thứ hai đập vào anh là phản ứng của họ về vị thế họ gán cho anh. Tôi có thể chia thành hai loại phản ứng cơ bản:
Phản ứng thứ nhất đến từ những người mà chính họ (hoặc những người thân quen) từng rút lại lời tuyên bố như vậy. Họ là những kẻ bị ép buộc phải công khai sống chung hoà bình với chế độ hay đang chuẩn bị sống như thế (bị ép buộc, dĩ nhiên – có ai tự ý đâu.)
Những kẻ này bắt đầu nhìn anh với nụ cười khó hiểu trên môi, nụ cười trước đây anh chưa từng trông thấy bao giờ: nụ cười ngượng ngùng như thể trong bụng họ đang toan tính chuyện đồng lõa bí mật nào đó. Nụ cười của hai người đàn ông tình cờ gặp nhau trong nhà thổ: cả hai ngượng ngùng trơ trẽn như nhau, nhưng cùng lúc lại thấy đỡ khổ vì dù sao đó cũng là tội lỗi chung, người kia như mình thôi chứ có khá hơn chút nào đâu, và mối dây thân mật tình huynh đệ bỗng dưng nẩy nở giữa hai người.
Nụ cười còn hàm chứa niềm tự mãn vì Tomas xưa nay nổi tiếng là người cứng cỏi, ít chịu giam mình vào lề thói thông thường. Họ xem việc anh chấp thuận lời đề nghị của ông bác sĩ trưởng khoa là bằng chứng xác thực cho lòng hèn hạ đang dần dà nhưng vô cùng chắc chắn trở thành cái gì bình thường trong nhân cách và không bao lâu sẽ chẳng còn ai thấy nó xấu xa nữa. Anh không bao giờ xem bọn này là bằng hữu, và anh thấy thất đảm khi nghĩ giả như anh khứng chịu lời yêu cầu của ông bác sĩ trưởng khoa, họ sẽ bắt đầu mời mọc anh đến nhà tiệc tùng và anh trở thành người bạn thân thiết trong đám họ.
Phản ứng thứ hai đến từ những người mà chính họ (hoặc những người thân quen) từng bị kết án. Có người không chịu thỏa hiệp với lực lượng chiếm đóng, có người tin chắc rằng họ sẽ không bao giờ chịu thỏa hiệp (kí tên vào bản văn kiện nào đó) mặc dù không ai yêu cầu họ phải thi hành (thí dụ, họ còn quá trẻ để bị dính líu nhiều).
Một hôm, bác sĩ S., một bác sĩ trẻ tuổi nhưng khá giỏi, chận hỏi Tomas: “Thế nào? Anh viết thư cho họ chưa?”
“Cậu đang nói trăng nói cuội gì đấy?” Tomas hỏi lại.
“Việc gì anh phải trả lời tôi như vậy, chuyện anh định rút lại lời tuyên bố trước đây…” giọng anh ta không chút ác ý. Trên miệng còn điểm nụ cười. Lại thêm một nụ cười hợm mình đắc chí.
“Cậu biết gì về lời tuyên bố của tôi?” Tomas hỏi lại. “Cậu đọc nó chưa?”
“Chưa,” S. trả lời.
“Vậy thì cậu đang bép xép chuyện gì đây?”
Vẫn hiu hiu đắc chí, vẫn nụ cười nửa miệng trên môi, S. trả lời: “Này, chúng tôi biết cả đấy. Anh kẹp nó trong lá thư gửi lên ông bác sĩ trưởng khoa hay ngài bộ trưởng nào đó. Rồi họ hứa với anh họ không tiết lộ ra ngoài để anh khỏi mất mặt. Có đúng như thế không?”
Tomas nhún vai cứ để S. thao thao nói tiếp.
“Nhưng mặc dù bản văn có chữ kí đó được cất giữ thật kĩ lưỡng, người kí tên thừa biết bất cứ lúc nào nó cũng có thể bị công khai hoá. Vì thế từ giờ phút đó trở đi, anh ta sẽ không bao giờ dám hở miệng chỉ trích ai, không bao giờ dám có thái độ một tí chống đối nào. Hở ra một chút bản văn lập tức xuất hiện trên mặt báo, tên tuổi người kí tên sẽ bị bôi nhọ và rao truyền khắp nơi. Nhưng nhìn chung, cách đó có lẽ lại hay. Người ta còn tưởng tượng ra những điều thâm độc tai hại hơn thế nhiều.”
“Vâng, cách đó hay lắm,” Tomas trả lời, “Nhưng xin cậu cho tôi biết ai là người gieo vào đầu óc cậu tư tưởng tôi sẽ khứng chịu trong chuyện này?”
S. nhún vai, nhưng nụ cười vẫn không tắt.
Đột nhiên Tomas nhận ra hiện tượng vô cùng lạ lùng: những người xung quanh ai nấy nhìn anh mỉm cười, mọi người đồng loạt muốn anh kí tên rút lại lời tuyên bố; điều đó làm họ vui sướng hả hê vô cùng! Hạng người với phản ứng thứ nhất vui sướng vì lòng hèn nhát được thổi phồng, nhờ đó họ thấy tác phong họ lúc trước là thông thường, và danh dự họ sẽ được phục hồi. Hạng người với phản ứng thứ hai mặc dù tự xem danh dự mỗi cá nhân là đặc quyền bất khả quy thuận, nhưng họ bí mật cưu mang tình thương cho những ai hèn nhát, bởi cõi đời này nếu không còn kẻ hèn nhát nữa thì lòng can đảm của họ chẳng bao lâu sẽ bị bào mòn thành cái gì tầm thường buồn tẻ, hết được ngưỡng mộ, tôn sùng.
Tomas chịu đựng hết nổi những nụ cười. Anh có cảm tưởng đâu đâu anh cũng thấy người ta cười vào mặt anh, ngay cả những người lạ mặt gặp trên hè phố. Anh bắt đầu mất ngủ. Lẽ nào? Có thật anh xem trọng những người này đến vậy sao? Không. Anh thấy họ chẳng có gì tốt lành đáng nói và anh giận mình đã để những cái liếc xéo kia làm điên đảo. Thật phi lí. Làm sao một người xem thường kẻ khác lại bị chính suy nghĩ của kẻ ấy chi phối cảm xúc mình?
Có lẽ mối nghi hoặc vốn ăn sâu trong lòng anh về con người (không cho phép ai có quyền áp đặt lên định mệnh hay thẩm định con người anh) đã góp phần trong việc anh chọn lựa nghề nghiệp, làm nghề gì không phải ra đứng trước đám đông. Thí dụ, người chọn nghề chính trị là người tự nguyện dùng công chúng làm thẩm phán đánh giá con người mình với niềm tin ngây ngô mình sẽ được đám đông yêu chuộng. Nếu đám đông quần chúng biểu lộ sự bất mãn, nó chỉ kích thích ông ta thực hiện những điều to tát tốt đẹp hơn, giống như Tomas hăm hở khi gặp ca bệnh khó khăn hiểm nghèo.
Y sĩ (khác với chính trị gia hay diễn viên) chỉ phải đối diện với bệnh nhân và những đồng nghiệp ngay bên cạnh mình, có nghĩa là, đằng sau cánh cửa khép kín, chỉ có quan hệ giữa người và người. Đối diện với những cái nhìn phê phán, ngay tức khắc anh có thể phản ứng với ánh mắt mình, để giải thích hay biện minh. Giờ đây (lần đầu tiên trong đời) Tomas rơi vào tình huống mà những cái nhìn chiếu vào anh nhiều đến nỗi anh không sao ghi nhớ hết. Dù bằng ánh mắt nhìn ngược lại hay bằng ngôn từ, anh hoàn toàn bất lực. Anh nằm trong tay mọi người. Người ta xì xào cả trong lẫn ngoài bệnh viện (đó là thời điểm tin tức về những ai phải bội, ai tố cáo, ai ra cộng tác, tràn ngập Praha âu lo với tốc độ chớp nhoáng của bức điện tín khẩn); và mặc dù biết vậy anh bó tay, không làm được điều gì. Anh ngạc nhiên khi thấy mình chịu đựng không nổi. Anh không hiểu cái gì khiến anh cảm thấy rối trí, hoảng sợ đến mức đó. Anh bị người đời chú ý, nó làm anh khó chịu như lúc bị kẹt giữa đám đông chen lấn hay có đêm bị ác mộng vật vã xé áo xé quần.
Anh đến nói với ông bác sĩ trưởng khoa anh sẽ không viết một chữ nào.
Ông bắt tay anh chặt hơn bình thường, ông bảo ông đoán trước quyết định của anh.
“Có cách nào tôi vẫn ở lại bệnh viện mà không cần phải kí tên?” Tomas gợi ý ông bác sĩ trưởng khoa thử đưa ra biện pháp như toàn thể bác sĩ đồng nghiệp anh đe doạ từ chức nếu anh bị cách chức.
Nhưng các bác sĩ đồng nghiệp anh chẳng bao giờ mơ chuyện họ đồng loạt đe doạ từ chức và chỉ trong thời gian ngắn (ông bác sĩ trưởng khoa bắt tay anh chặt hơn cả lần trước – mấy ngày sau vẫn chưa hết thâm đen), anh bị đuổi khỏi bệnh viện.
5
Thoạt tiên anh về làm việc tại một bệnh xá cách Praha chừng năm chục dặm. Anh đáp tàu hỏa đi làm mỗi ngày và tối nào về nhà anh cũng mệt nhoài. Một năm sau, anh xoay xở tìm được chỗ gần nhà hơn, ngay ngoại thành Praha, nhưng anh phải chấp nhận công việc thấp kém hơn nhiều. Anh chỉ khám bệnh cho toa chứ không được phép hành nghề bác sĩ giải phẫu. Phòng đợi bệnh xá lúc nào cũng chật cứng, anh có vừa vặn năm phút đồng hồ cho mỗi bệnh nhân; anh bảo họ uống bao nhiêu viên aspirin, kí giấy xin nghỉ việc cho họ, và giới thiệu họ đến bác sĩ chuyên khoa. Anh tự xem mình là công nhân viên nhiều hơn là bác sĩ.
Một hôm, lúc giờ tan tầm, một gã đàn ông trạc năm mươi tuổi, nhân dáng bệ vệ ghé vào tìm anh. Gã tự giới thiệu là người đại diện cho bộ Nội vụ rồi mời Tomas sang quán bên kia đường uống rượu.
Gã đàn ông gọi một chai rượu. “Tôi phải lái xe về nhà,” Tomas từ chối khéo. “Tôi sẽ bị tịch thu bằng lái nếu bị bắt.” Gã mỉm cười. “Bất kì chuyện gì xảy ra, anh chỉ việc đưa họ xem cái này.” Đoạn gã chìa ra tấm danh thiếp in tên họ (dĩ nhiên là bí danh của gã) và số điện thoại trên bộ.
Sau đó gã lên giọng thuyết giảng tràng giang đại hải nào là gã vô cùng thán phục tài năng Tomas, nào là trên bộ hết sức khổ tâm về chuyện một bác sĩ khoa phẫu thuật có tài như Tomas mà phải ra ngồi phát aspirin tại một chẩn y viện xa xôi. Gã cố tình cho Tomas thấy mặc dù gã không thể đứng ra tuyên bố công khai, nhưng ngành cảnh sát không đồng ý với những biện pháp gắt gao như bứng các chuyên gia ra khỏi công việc của họ.
Đã lâu Tomas không nghe ai tâng bốc mình, anh lắng nghe gã quan chức béo tốt nói chuyện, và anh ngạc nhiên vì những gì gã biết về nghề nghiệp anh đều chính xác và đầy đủ chi tiết. Thế mới biết khi được thổi phồng nịnh bợ chúng ta trở nên yếu đuối xiết bao! Những điều gã đàn ông nói, Tomas không tài nào tự phân biệt được đâu là chân và đâu là giả.
Nhưng không phải chỉ có sự nịnh nọt giả dối. Quan trọng hơn, Tomas là người thiếu kinh nghiệm. Khi ngồi mặt đối mặt với một nhân vật khả kính, vui vẻ, và lịch sự, bạn sẽ thấy rất khó khăn nếu cứ phải tự nhắc nhở tất cả những gì ông ta nói đều sai sự thật, tất cả đều không chân thành. Để giữ vững sự không tin trong lòng (liền lạc, có hệ thống, không chút dao động) đòi hòi người ta phải có nỗ lực phi thường và được huấn luyện kĩ lưỡng – nói cách khác, phải quen với thẩm vấn kiểu công an. Tomas không có kinh nghiệm ấy.
Gã đàn ông nói tiếp: “Chúng tôi biết anh có việc làm vị trí rất cao bên Zürich, và chúng tôi biết ơn anh đã quay về quê hương. Đó là hành vi cao cả. Anh ý thức được vị trí của anh ở đây.” Rồi gã nói thêm, như thể đang mắng nhiếc Tomas chuyện gì, “Nhưng vị trí của anh là nơi bàn mổ!”
“Tôi không chối cãi chuyện đó,” Tomas trả lời.
Sau một giây im lặng, gã đàn ông nói tiếp, giọng trầm xuống: “Vậy thì, hỡi bác sĩ, có thật anh nghĩ bọn họ nên tự móc mắt mình ra không? Anh, người đem món quà sức khỏe đến cho không biết bao nhiêu con người?”
“Nhưng chuyện đó phi lí hết sức!” Tomas kêu lên bào chữa. “Tại sao ông không tìm đọc xem tôi viết cái gì?”
“Tôi đọc rồi,” giọng gã bỗng trở nên cực kì bi thiết.
“Vậy, trong đó ông có thấy tôi viết bọn họ hãy tự móc mắt ra không?”
“Nhưng ai cũng hiểu như vậy,” giọng gã càng lúc càng buồn bã.
“Nếu ông đọc từ đầu đến cuối bài viết khi chưa bị cắt xén, ông sẽ không nghĩ như vậy đâu. Bản in trên báo bị cắt bỏ đôi chút.”
“Cái gì?” gã đàn ông ngồi bật dậy, tai vểnh lên. “Anh nói họ không đăng nguyên văn những gì anh viết à?”
“Họ cắt xén tùm lum.”
“Nhiều không?”
“Chừng một phần ba.”
Thái độ gã đàn ông xem chừng bị sốc thật. “Họ làm vậy không đúng đắn chút nào.”
Tomas nhún vai không nói gì.
“Lẽ ra anh phải phản đối, yêu cầu họ đính chính ngay!”
“Trước khi tôi kịp có thời gian suy nghĩ về chuyện đó thì người Nga đã tràn sang. Lúc đó có ai rảnh rang đâu.”
“Nhưng anh đâu muốn thiên hạ nghĩ rằng anh, đường đường một bác sĩ, lại đòi tước đoạt quyền nhìn thấy ánh sáng của người khác.”
“Xin ông nghĩ kĩ giùm. Đó chỉ là lá thư độc giả, bị nhét vào tận trang cuối. Chẳng ai rỗi công đâu để ý đến nó ngoại trừ ban hành sự tòa đại sứ Nga, vì đó là cái gì họ tìm kiếm.”
“Anh chớ nên nói vậy! Chớ bao giờ nghĩ như vậy! Chính tôi từng nói chuyện với nhiều người đọc bài viết của anh và ai cũng tỏ ý ngạc nhiên khi biết anh là tác giả. Nhưng bây giờ anh nói tôi mới biết bài viết của anh bị sửa đổi, và tôi thấy có nhiều chuyện ăn khớp vào nhau. Họ có thuyết phục anh làm chuyện đó không?”
“Thuyết phục tôi viết bài báo ư? Không. Tôi tự ý viết và gửi đến họ.”
“Anh biết rõ những người ở đó không?”
“Người nào?”
“Người đã cho đăng bài viết của anh.”
“Không.”
“Có nghĩa là anh không bao giờ nói chuyện với họ?”
“Họ có yêu cầu tôi đích thân đến tòa soạn một lần duy nhất.”
“Tại sao?”
“Về bài viết.”
“Anh nói chuyện với những ai?”
“Một trong những biên tập viên.”
“Tên ông ta là gì?”
Mãi đến lúc đó Tomas mới chợt nhận ra anh đang bị thẩm vấn. Ngay lập tức anh biết mỗi lời anh nói ra đều có thể gây rắc rối nguy hiểm đến người nào đó. Mặc dù anh nhớ tên người biên tập viên tờ báo nhưng anh chối phăng: “Tôi không nhớ tên ông ta là gì.”
“Này, này.” Giọng gã đàn ông bỗng nhiên đầy bực tức, “Anh đừng bảo tôi ông ta không tự giới thiệu!”
Thật là bi hài, sự việc chúng ta được nuôi nấng dậy dỗ tử tế lại là đồng minh đắc lực của mật vụ. Chúng ta không biết nói dối. Mệnh lệnh từ các bậc cha mẹ bề trên “Hãy nói thật!” như tiếng trống đập vào tai thành thói quen tự động đến nỗi ngay cả không thành thật với gã mật vụ đang thẩm vấn cũng khiến chúng ta thấy xấu hổ ngượng ngùng. Thà lớn tiếng cãi cọ hay sỉ nhục gã (không hợp lí chút nào) còn dễ dàng hơn phải nói lời dối trá vào mặt hắn (điều duy nhất làm được).
Khi gã đàn ông buộc tội Tomas thiếu thành thật, suýt nữa anh thấy mình có lỗi; phải khó khăn lắm anh mới vượt qua bức tường luân lí để câu nói dối gọn gàng trôi chảy: “Tôi chắc ông ta có tự giới thiệu, nhưng vì không có chi đáng để ý nên tôi quên béng.”
“Tướng mạo ông ta ra sao?”
Người tiếp chuyện Tomas ở tòa báo dáng người thấp lùn, mái tóc cắt ngắn màu nâu nhạt. Dựa vào đó Tomas cố tình bịa ra hình ảnh hoàn toàn trái ngược: “Ông ta cao ráo, tóc đen, dài.”
“A, và cằm thì lớn.”
“Đúng đấy.”
“Lưng hơi gù.”
“Đúng.” Đến đây Tomas biết gã đàn ông đối diện anh đã phăng ra được một nhân vật nào đó. Tomas đang làm công tác điềm chỉ một người làm báo đáng thương nhưng, quan trọng hơn, thông tin anh đưa ra hoàn toàn sai lạc.
“Ông ta cần gặp anh để nói chuyện gì?”
“Chỉ để thay đổi vị trí vài từ trong bài viết.”
Nghe như một cố gắng né tránh lố bịch, buồn cười. Một lần nữa, gã đàn ông như không dằn được bực tức vì Tomas không chịu nói sự thật: “Thoạt đầu anh bảo tôi họ cắt xén cả một phần ba bài viết của anh, bây giờ anh bảo họ nói chuyện với anh chỉ để thay đổi vị trí vài từ ngữ. Nghe có hợp lí không cơ chứ?”
Lần này Tomas trả lời không ngượng ngập, bởi điều anh nói tuyệt đối có thật. “Nghe không hợp lí chút nào, nhưng đó là sự thật.” Anh cười. “Họ xin phép tôi cho họ thay đổi vị trí từ ngữ trong một câu văn và rồi họ cắt xén một phần ba những gì tôi viết.”
Gã đàn ông lắc đầu như thể không hiểu nổi việc làm tắc trách như vậy. “Việc họ làm không đúng chút nào.”
Gã uống cạn li rượu rồi kết luận: “Bác sĩ, anh bị họ cho vào tròng, anh bị lợi dụng. Thật bất hạnh cho anh và cho các bệnh nhân của anh đã phải gánh chịu thiệt hại do việc họ gây ra. Chúng tôi hiểu rất rõ khả năng của anh. Để xem chúng tôi làm được những gì.”
Gã thân thiện bắt tay Tomas đoạn hai người từ giã ra xe ra về.
6
Sau buổi nói chuyện với gã đàn ông trên bộ, Tomas thấy lòng mình chìm đắm trong nỗi buồn vô hạn. Càng nghĩ anh càng không hiểu tại sao anh có thể kéo dài câu chuyện với gã trong bầu không khí vui vẻ như vậy. Đồng ý đi theo gã (chuyện xảy đến bất ngờ quá và anh không nắm rõ luật pháp cái gì được phép và cái gì trái phép), nhưng ít nhất anh vẫn có thể khước từ lời mời uống rượu với gã như hai người bạn thân thiết chứ! Giả sử có người trông thấy anh vào quán với gã và biết gã là mật vụ, người đó đương nhiên sẽ suy luận Tomas đang cộng tác với cảnh sát! Và việc gì anh phải cho gã biết bài viết của anh bị cắt xén? Tại sao anh phải ném ra thông tin đó? Anh tự bất mãn với chính anh không để đâu cho hết.
Hai tuần lễ sau, gã đàn ông trên bộ lại đến tìm anh. Gã lại mời anh đi uống rượu nhưng lần này Tomas yêu cầu nói chuyện ngay tại văn phòng anh.
“Vâng, bác sĩ, tôi hiểu rõ lắm,” gã đàn ông trả lời, nhếch mép cười.
Tomas thắc mắc về câu nói của gã đàn ông. Gã nói với giọng điệu như tay đấu cờ đang cho đối thủ biết nước cờ trước chú mày đi hỏng rồi.
Hai người ngồi đối diện nhau, Tomas sau bàn giấy. Sau chừng mười phút nói chuyện lan man về trận dịch cúm đang hoành hành lúc đó, gã đi vào vấn đề chính, “Chúng tôi suy nghĩ rất nhiều về trường hợp của anh. Giữa chúng ta với nhau, chuyện đó thật ra chẳng có chi trọng đại. Nhưng ở đây chúng ta có ý kiến của quần chúng. Chính vì thế dù có chủ ý hay không bài viết của anh cũng đã thổi ngọn lửa chống chính quyền điên cuồng vào quần chúng. Tôi phải cho anh hay sự việc nghiêm trọng đến nỗi có người đòi đưa anh ra tòa xét xử. Xúi giục dân chúng bạo động là có tội.”
Gã ngưng nói trong chốc lát để nhìn vào mắt Tomas. Anh nhún vai không nói gì. Gã đàn ông đổi lại giọng hòa nhã. “Nhưng chúng tôi biểu quyết chống đề nghị đó. Không cần biết trách nhiệm anh ra sao trong việc đó, xã hội phải biết tận dụng những người có khả năng như anh. Ông bác sĩ trưởng khoa nơi bệnh viện anh làm việc lúc trước đề cao anh hết lời. Chúng tôi còn nhận được báo cáo từ bệnh nhân của anh nữa. Anh là một chuyên gia giỏi. Không ai yêu cầu bác sĩ phải hiểu biết chính trị. Anh đã để mình bị lôi cuốn. Đã đến lúc chúng ta giải quyết chuyện này, một lần cho xong rồi thôi. Vì lẽ đó, chúng tôi dự thảo lá thư này để anh kí tên vào. Anh chỉ cần gửi lá thư cho báo chí, chúng tôi sẽ thu xếp mọi chuyện làm sao cho lá thư xuất hiện đúng lúc trên mặt báo.” Gã trao vào tay Tomas mảnh giấy.
Tomas đưa mắt đọc và anh toát mồ hôi hoảng sợ. So với lá thư ông bác sĩ trưởng khoa yêu cầu anh kí cách đây hai năm trước, tờ giấy này mang lời lẽ khác hẳn. Ngoài chuyện rút lại bài viết về Oedipus, lá thư còn chứa đựng những câu như tỏ ý mến yêu nước Nga, tuyên thệ trung thành với tổ chức, lên án thành phần trí thức, đổ lỗi thành phần này muốn đẩy đất nước vào cảnh nội chiến; và, trên hết, nó tố cáo ban biên tập tờ báo tuần (đặc biệt nhấn mạnh đến người biên tập cao cao lưng gù; Tomas chưa bao giờ gặp mặt, nhưng anh biết tên tuổi ông và thấy hình ảnh ông xuất hiện trên mặt báo), tố giác những người đó đã bóp méo bài viết của anh, dùng bài viết như công cụ, biến nó thành lời kêu gọi dân chúng phản cách mạng.
Gã đàn ông nhận ra nét hoảng sợ trong ánh mắt Tomas. Gã chồm người tới thò tay dưới gầm bàn thân thiện vỗ lên đùi anh. “Bác sĩ nên nhớ đây chỉ là bản dự thảo thôi! Bác sĩ suy nghĩ thật kĩ và nếu có gì trong đó anh muốn thay đổi tôi chắc chúng ta sẽ tìm ra điểm đồng thuận dễ dàng. Nói cho cùng, chính anh là người kí tên mà!”
Tomas trả lại gã mật vụ tờ giấy như thể anh không muốn giữ nó trong tay mình thêm phút giây nào nữa, như thể anh sợ có người tìm thấy dấu tay anh trên đó.
Nhưng thay vì cầm lại tờ giấy, gã mật vụ dang hai cánh tay ra với thái độ sững sờ đầy giả tạo (tư thế rất giống lúc Đức Giáo hoàng dang tay ban phép lành cho tín đồ dưới bao lơn). “Ô hay, tại sao bác sĩ lại làm thế? Cứ giữ nó đi. Về nhà rồi bình tĩnh suy nghĩ lại.”
Tomas lắc đầu, cánh tay anh vẫn nhẫn nại đưa thẳng về phía trước. Cuối cùng, gã đàn ông phải thu lại tư thế dang tay như Đức Giáo hoàng để cầm tờ giấy.
Tomas định nói thẳng vào mặt gã một cách rạch ròi là anh sẽ không đời nào viết hay kí tên vào bất cứ bản văn nào, nhưng chưa kịp nói anh vụt đổi ý, và bằng giọng nói từ tốn anh bảo gã, “Tôi đâu có mù chữ, phải không? Tại sao tôi phải kí tên vào mảnh giấy không do chính tôi đặt bút viết?”
“Tốt lắm, bác sĩ. Làm theo cách của anh cũng tốt thôi. Anh cứ tùy tiện viết xuống rồi chúng ta cùng duyệt lại sau. Anh có thể dựa vào những gì anh vừa đọc làm bản mẫu.”
Tại sao Tomas không từ chối phứt cho xong?
Có lẽ đây là điều đang chạy qua trí óc anh: Ngoài việc dùng những văn bản tương tự để áp đảo dân trong nước, riêng trường hợp Tomas nha cảnh sát có thể đang nhắm vào mục tiêu cụ thể: rất có thể họ đang đi thu nhặt tang chứng để truy tố ra toà những biên tập viên tờ báo tuần đăng bài viết của anh. Nếu quả thật như vậy, họ cần một bản tuyên bố để trưng ra trong phiên xử và dùng nó cho chiến dịch bôi nhọ những biên tập viên ấy trên báo chí. Trường hợp anh từ chối thẳng, trên nguyên tắc, nha cảnh sát vẫn có thể ngang nhiên ngụy tạo chữ kí anh rồi đăng tải lá thư mà không cần biết anh có cho phép hay không. Sẽ chẳng tờ báo nào dám đăng lời thanh minh của anh. Không người nào trên cõi đời này không tin anh viết hay kí tên vào lá thư. Trông thấy người khác khổ sở, nhục nhã người ta thống khoái đến độ chẳng ai buồn quan tâm đến một lời giải thích, biện minh.
Cho cảnh sát hi vọng anh tự tay viết lá thư, anh kéo dài được ít thời gian. Ngay ngày hôm sau anh xin nghỉ việc. Anh suy nghĩ (đúng) sau khi anh tự nguyện bước xuống nấc thang thấp nhất của xã hội (cùng với cả ngàn trí thức ở các lãnh vực khác lúc đó), cảnh sát sẽ để anh yên. Lí do giản dị, bởi một khi anh ở nấc thang thấp nhất rồi, lá thư dù tung ra sẽ chẳng ai tin là thật. Xưa nay sự bôi nhọ thường đi đôi với sự đi lên của người kí tên chứ chẳng bao giờ dính líu đến người đi xuống.
Nhưng quốc gia nơi Tomas sinh trưởng, bác sĩ là nhân viên nhà nước và nhà nước có toàn quyền quyết định cho đi hoặc giữ lại. Người mà Tomas thương lượng xin thôi việc biết rõ tên tuổi và chức phận anh, ông cố nài nỉ anh ở lại. Đột nhiên Tomas thấy hoang mang về quyết định của mình, nhưng cùng lúc anh thấy như bị trói buộc vào quyết định đó bằng lời thề bất thành văn, vì vậy anh đứng bật dậy. Và đó là câu chuyện đưa đẩy Tomas trở thành người lau chùi cửa sổ.
-- Milan Kundera
(Trích đoạn tiểu thuyết Đời nhẹ khôn kham -- Trịnh Y Thư dịch)
Gửi ý kiến của bạn