Hôm nay,  

Thoáng hương mùa cũ

19/04/202317:24:00(Xem: 1624)
Truyện

Trang vở cũ_HTT
Trang Vở Cũ – Tranh Hoàng Thanh Tâm.
Mùa lễ Phục Sinh, đám con nít gặp nhau ở nhà ông bà Ngoại, vui mừng tở mở. Đêm nào chúng cũng thức khuya lắc, khuya lơ. Sáng dậy trưa trật, trưa trờ. Mở mắt, mở miệng, như bầy tằm ăn rỗi. Chúng lau chau một hồi là tủ lạnh láng o. Chúng sục sạo tủ này, tủ kia, hỏi, chúng trả lời: “Kiếm cái chi tào lao ăn cho đỡ buồn miệng”. Nhà bếp bày biện nấu nướng linh đình, hết bánh cuốn, bánh canh đến cơm chiên, mì xào. Khi nhà bếp tuyên bố, hôm nay mời món bún ốc, đám trẻ uể oải: “Thôi, con nhịn đói”, “Con ăn chips cho no cũng được”. Bỗng đâu, giọng oanh vàng thỏ thẻ:
     – Lâu lắm rồi mình chưa đi ăn nhà hàng.
     Thế là có ngay dàn hợp xướng:
     – Đúng rồi! Bữa nay người lớn đãi con nít ăn nhà hàng Mỹ.
     Nhà hàng sang trọng đây là tiệm ăn của cháu chắt mấy đời ông Mạc Đĩnh Chi: ông Mỹ Mạc-Đô-Nô. Trong nhà, ai nấy bận rộn. Chỉ có Quỳnh Tương bị “ế độ” thôi. Bởi vậy, mọi người nhanh chóng có ngay quyết định. Người lớn Quỳnh Tương sẽ dẫn bầy cháu ra McDonald's để chúng chạy ngoài trời cho giãn gân, giãn cốt. Rồi vào tiệm nạp năng lượng với những big mac, hamburger, những shake này, shake kia.
     Cho mấy đứa nhỏ tìm bàn ngồi, nàng dắt hai đứa lớn lại quầy để đặt đồ ăn. Chỉ việc biểu mấy đứa nhỏ điều chỉnh âm thanh vừa đủ nghe là đã khản cả tiếng. Năm người, mười ý, tụi nhỏ ưa lộn xộn đó thôi. Tiệm McDonald's đâu phải đại tửu quán có hàng chục món điểm sấm, cả trăm món xào, chiên. Nàng phải lên giọng đe dọa: “Tụi bây rắc rối quá là dì xù. Dì dắt cả đám về nhà, bắt mỗi đứa ăn một trái táo”. Bầy nhỏ nghe đến táo, mặt mày đổi qua xanh lè như màu táo Granny Smith. Hai đứa lớn, bộ tịch nghiêm chỉnh, nhanh chân nối đuôi vào hàng ở quầy, đặt thức ăn cho cả nhóm.
     Quỳnh Tương chẳng hiểu tại sao những tiệm McDonald's luôn đông khách. Khoai tây chiên xìu xìu, chẳng bù với khoai chiên giòn tan ở các sạp bán xúc xích nướng. Mấy loại bánh mì kẹp thịt hâm hẩm, chẳng có mùi vị gì đặc biệt. Dọc đường đói bụng, ăn bánh mì Döner của Thổ Nhĩ Kỳ, nồng nàn vị xốt tỏi, đậm đà hơn nhiều. Vào tiệm McDonald's, nàng chỉ thích mỗi món bánh táo. Mắt nàng lơ đễnh nhìn các hình quảng cáo, mặc cho hai đứa nhỏ lựa chọn. Lát nữa, nàng chỉ cần hoàn thành sứ mệnh danh dự là trả tiền và giữ trật tự, trong khi đám con nít vừa ăn, vừa chọc ghẹo nhau.
     – Hallo Ihr Kleine, bitte schön! Nào, các cháu bé thích món gì đây!
     Cu Tí và Bê Bê cùng liến thoắng:
     – Vier happy meals, zwei mc rib, eine Apfeltaschebitte! Cho chúng cháu xin bốn phần này, hai phần kia, một phần bánh táo…
     Đột nhiên, Quỳnh Tương sững sờ, nhìn người đang đứng ở quầy vừa nhắc lại lời đặt hàng vừa bấm máy tính tiền. Trời ơi, Hiển, đúng là Hiển rồi. Lúc đó, Hiển cũng vừa nhận ra Quỳnh Tương. Hiển lúng túng, cố giữ giọng tự nhiên, hỏi hai đứa nhỏ:
     – Noch einen Wunsch? Còn đặt món gì nữa không các cháu?
     Hai đứa nhanh nhẩu:
     – Nein, das war´s. Danke schön. Dạ thôi, đủ rồi. Cám ơn.
     Hiển lách cách bấm máy, cười gượng gạo:
     – Lâu ghê, mới gặp lại Quỳnh Tương. Quỳnh Tương ở gần đây hả?
     Quỳnh Tương không giấu nổi bối rối:
     – Ờ, ờ, gần đây. À, à, chào Hiển, Hiển khỏe không?
     – Cám ơn Quỳnh Tương. Hiển cũng thường. Ồ, quên, phải tính tiền nữa chứ.
     Hiển đổi qua tiếng Đức:
     – Dreiunddreißig… Ba mươi ba đồng.
     Bê Bê láu táu:
     – Dì Út quen với chú này hả?
     Cu Tí lên giọng ta đây:
     – Không phải là chú đâu, là bác, vì bác này già hơn dì Út mà.
     Bất giác, nàng nhận ra Hiển già đi nhiều. Mới có gần mười năm, mà Hiển chẳng còn chút dáng dấp thư sinh. Trả tiền xong, nàng lí nhí đôi lời, nửa Việt, nửa Đức:
     – Cám ơn Hiển. Vielen Dank. Tschüß.
     Mặc cho bầy nhóc lao nhao tranh giành ăn uống. Trí Quỳnh Tương đang lùi những bước thật dài, thật nhanh về quá khứ, thời trung học ở một làng bé tí, miền trung nước Đức. Trong trường dành cho những học sinh ngoại quốc lỡ thì, quá lứa, đa số là “hàn nho” Việt Nam, nhiều người đang tà tà bước vào tuổi “băm”. Lèo tèo vài ba học sinh từ Tansania, Kenia, Kurdistan, Pakistan. Mỗi tầng lầu của ký túc xá cho khoảng 20 học trò chỉ có một nhà bếp lớn. Bởi thế, vào giờ cao điểm, những giao tranh nho nhỏ của dao thớt nồi niêu chẳng thể nào tránh khỏi. Chuyện gia vị, chén bát đi lạc cũng là chuyện hàng ngày. Đăng, một đầu bếp trứ danh của nhóm nam, lục lọi tủ đồ ăn, la oang oang:
     – Hiển, Hiển. Tương đâu?
     Nhân đang đứng gần đó, quay sang nhìn Quỳnh Tương, đủng đỉnh:
     – Tương đây nè. Làm gì mà phải hỏi thằng Hiển.
     Quỳnh Tương bực ghê. Đang chiên chả giò, nàng không dám dằn mạnh đũa chiên, vì sợ lỡ dầu văng trúng, phỏng thì oan mạng. Tên Quỳnh Tương văn hoa như vậy, mà mấy ông “cốt đột” này lại đem ra so với nước tương maggi hiệu cô đầu bếp cười toe. Đăng không để ý câu đùa của Nhân, chỉ lầm bầm:
     – Ông nội Hiển nấu ăn dở như hạch mà cũng bày đặt trổ tài. Nấu xong rồi dọn dẹp lộn xộn, xáo trộn hết trật tự của người ta.
     Khi Hiển chạy ra bếp, Đăng nhăn nhó:
     – Ông làm ơn lấy đồ đạc ở đâu, thì để lại đó. Mà thôi, nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, ông ơi. Ông cứ lo rửa dọn. Còn chuyện bếp núc để tui với thằng Nam tính.
     Hiển hiền lành:
     – Hôm qua, mấy ông miệng than đói, mà mắt dính cứng ti– vi coi đá banh. Tui phải tìm nấu quấy quá kiếm chút bỏ bụng.
     Thật ra, chẳng phải Hiển bất tài nơi chốn này. Ngày mới lập nhóm, Hiển lừng lẫy với món gan xào thơm. Danh vọng lên cao đến độ Hiển mang luôn cái tên hấp dẫn mà kỳ cục: Hiển gan xào. Nhiều đứa bạn lười lĩnh, chỉ gọi Hiển bằng hai chữ Gan Xào. Ban đầu, Hiển rất rầu vì cái tên có vẻ dĩ vãng khơi niềm đau. Dần dà, Hiển cũng quen và cảm thấy cần thiết để phân biệt với Hiển quắn lầu 1. Ngày ấy, Hiển và mấy người bạn họp nhau nấu ăn chung. Luân phiên, mỗi người nấu một ngày. Ai nấy hể hả. Bao nhiêu là của ngon, vật lạ. Hiển tung ra món gan xào thơm. Trong nhóm mỗi người một lời, thi nhau khen. Khiến Hiển có cảm tưởng mình là đầu bếp thứ thiệt, tài năng đang lên như diều gặp gió. Thành xuýt xoa:
     – Ngon, ngon không thể tưởng. Không thua gì món rựa mận ở đường Thoại Ngọc Hầu.
     Thục hỏi vặn:
     – Lúc ở Việt Nam, chú mày nhậu thịt chó dữ lắm sao?
     Thành giả lả:
     – Nhà tui ở đường đó mà! Đi ngang thấy họ để bảng quảng cáo nào là nhứt mực nhì vàng, nào là sống ở đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không.
     Nam sốt ruột cắt ngang:
     – Biết rồi, biết rồi. Quan trọng là ông đã ăn thịt cầy chưa?
     Thành nhẩn nha:
     – Thong thả. Chuyện gì cũng phải có đầu đuôi ngọn ngành chứ. Hồi đó, bà già tui cấm ăn thịt chó. Bà đe dữ lắm, cấm tiệt. Nhưng tui đi học ngày nào cũng đi ngang qua hàng thịt cầy. Vừa thấy hình chú nai đồng quê, vừa ngửi mùi. Thì coi như đã ăn rồi. Ăn... hàm thụ.
     Nhưng không lâu sau, thấy Hiển cứ bổn cũ soạn lại, cả nhóm đồng lòng thăng chức Hiển thành “phi công lái dĩa bay” và xóa tên vĩnh viễn món gan xào thơm ra khỏi thực đơn của nhóm. Nhà bếp rộng rãi, nhưng vẫn đủ để cho mọi người cùng hiểu chuyện nhau. Quỳnh Tương cũng như Hiển, nghề chính là rửa chén bát. Hôm nay ngoại lệ, mấy chị đã gói xong chả giò, nàng chỉ mỗi việc chăm lo nồi dầu chiên. Thỉnh thoảng, nàng thử “khám phá tài năng” mình, bữa thì mặn điếng, lúc thì nhạt thếch. Có lần, nàng tính nấu bún mọc, hầm xương không để ý, nước sôi sùng sục, đục ngầu. Vậy là nàng quyết định đổi thành bún bò, mặc dù không có thịt bò gân, giò heo và sả. Nàng xào bột ớt Paprika với dầu, nước đo đỏ ở trên mặt, coi như êm. Đến lúc dọn ra, nàng đã no vì nếm lui, nếm tới quá nhiều. Mấy chị làm ra vẻ khảnh ăn, khèo khèo vài cọng bún, húp vài muỗng nước, rồi buông đũa, vì trí tưởng tượng không đủ phong phú để nhận ra món nàng nấu là món ăn Việt hẳn hoi. Quỳnh Tương hay gặp “đồng nghiệp” Hiển trong những lúc thi hành công tác. Không hẹn, mà Hiển và Quỳnh Tương thường trùng “ca” lao động. Chén bát của chị em nàng gọn gàng, khoắng một tí là xong. Nàng chỉ ngán đám nồi niêu to lớn, dềnh dàng. Thấy nàng loay hoay với mấy xoong chảo dầu mỡ, Hiển hào hiệp ra tay cứu nhân độ thế. Nàng chỉ lẩn quẩn đứng trò chuyện. Tự lúc nào, những giờ giấc tinh tú quay cuồng với mớ chén bát, nồi niêu là thời gian Hiển và Quỳnh Tương chuyện trò tâm đầu ý hợp. Những câu chuyện lan man có thể đối với người khác vớ vẩn, ấm ớ. Nhưng đối với cả hai là những trao đổi thật thú vị. Chuyện ông thầy Anh văn giận đám học trò không sành ăn. Ông thầy nghỉ hè, lên tận bắc Âu câu cá. Rồi đem thành quả đi hun khói. Với cả tấm lòng, ông đem biếu cho đám học trò để tụi nó ăn bánh mì. Nhưng đám học trò Việt Nam không hảo những khoanh cá hoi hoi màu cam đỏ, đặt lên miếng bánh mì đen thui. Thế là một cô trong nhóm nhanh nhẩu thắng nước màu, xịt nước mắm, rắc tiêu, thêm vài trái ớt và biến thành món cá kho. Chỉ thiếu cái tộ và ăn với canh chua là thành món đặc sản Việt Nam. Ông thầy thất vọng não nề, mặt chầm vầm một đống. Nếu ông thầy rành tiếng Việt, chắc ông sẽ buông thõng một câu: “Ôi bầu dục mà chấm mắm cáy”. Chuyện cô giáo Hóa học tình cờ ngang qua phòng ăn, khi học trò đang xì xụp món bún riêu. Học trò diễn tả rằng, món này giống như súp trứng, tha thiết mời cô dùng bữa. Cho đúng điệu, một bạn múc một muỗng mắm ruốc đậm tình quê hương vào tô của cô. Tội nghiệp cô, phải ngậm đắng nuốt cay mà xơi món hải vị đặc biệt này. Cứ vậy, hai đứa ngày ngày cùng vui trong công việc chẳng mấy ai ưa chuộng.
     Thường đầu tháng, mới lãnh học bổng, nhóm bạn của Hiển kéo nhau ra quán ăn gà nướng. Nhà bếp vẫn có những người khác ra vào, nấu nướng rửa chén, mà những ngày không có Hiển trong bếp, nàng thấy văng vắng, thiêu thiếu điều gì. Nàng rửa chén thật lẹ rồi rút về phòng. Nghỉ hè, mấy chị em Quỳnh Tương về nhà. Hiển cùng vài bạn khác, những người một thân, một mình ở Đức, rủ nhau đi chơi loanh quanh thám hiểm nước Đức. Quỳnh Tương còn nhớ cảm giác man mác buồn vào mỗi mùa nghỉ. Trở về trường, cả hai lại có những giờ phút chuyện trò vui vẻ bên bồn rửa chén. Gần ba năm ở mái trường trung học này, xuất hiện nhiều đôi bạn. Nhân, từ khi cặp với Nguyệt Nga trở thành Vân Tiên. Dũng, cao lêu khêu, tự động bị đổi tên là Chú Lùn sau khi thành người yêu của Bạch Tuyết. Trong những sinh hoạt chung của ký túc xá, Quỳnh Tương và Hiển luôn có mặt. Cứ hai tuần một lần, tối thứ Sáu, cô Finke viết thật to trên tấm bảng trước văn phòng: Heute Abend! Disco! Tối nay có nhảy nhót. Học trò Việt Nam đông nhất, giành lấy việc để nhạc “tua” cho đầy đủ điệu nhảy Pasodoble, Tango, Chachacha... Nào là Dừng bước giang hồ, Mộng ban đầu, Nắng chiều... Học trò các sắc dân khác đến chơi vài lần, nghe “rơ” nhạc Việt Nam là dội, nhường hẳn đêm Disco cho học trò Việt Nam. Thấy bạn bè khiêu vũ, Quỳnh Tương rất thích. Nhưng cả nàng và Hiển không biết nhảy. Các “kép” khác xem Quỳnh Tương là “của” Hiển. Cho nên, chẳng ai mời nàng nhảy các điệu tình tứ. Chỉ khi “ông bầu” để những bài vui nhộn như Sáu mươi năm cuộc đời, Hot Stuff, Let's Twist Again... Thục rủ hết mọi người ra sàn nhảy, Hiển và Quỳnh Tương mới theo các bạn lúc lắc. Cho đến ngày rời trường, những gặp gỡ “riêng hai đứa mình” của Quỳnh Tương và Hiển vẫn chỉ là những buổi chuyện vãn trong nhà bếp.
     Sau mấy năm mài đũng quần ở trường làng, ai nấy giờ đây đã thành cô tú, cậu tú. Mấy nhóm cùng tầng lầu rủ nhau làm buổi tiệc chia tay. Nhóm nào cũng trình làng những món ăn tâm đắc của mình. Gánh nặng bài vở đã nhẹ, mọi người thơ thới, chuyện trò vui như tết. Họp mặt phải có hát hò mới vui trọn vẹn. Bởi vậy, màn văn nghệ bỏ túi được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt. Ai cũng góp phần. Nhưng Quỳnh Tương nhớ nhất phần trình diễn của Hiển. Hiển đọc bài thơ Hoa học trò của thi sĩ Nhất Tuấn. Rưng rưng phượng đỏ trên đầu/Tìm em, anh biết tìm đâu bây giờ/ Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa/ Gửi vào đây một bài thơ cuối cùng. Quỳnh Tương lắng nghe, xao xuyến. Hiển nâng đàn hát, đến đoạn Bây giờ còn nhớ hay không? Nhiều người không hẹn, mà cùng ca theo Bây giờ còn nhớ hay không?* Nàng hơi cúi đầu, vờ đưa tay nhón miếng trái cây, giấu sự cảm động. Nàng hơi tiếc, đã không nhìn Hiển. Biết đâu, ánh mắt của nàng sẽ gặp ánh mắt của Hiển. Cuối buổi, Đăng làm ra vẻ trịnh trọng:
     – Mời Nam đại diện cho nhóm đọc bài thơ “Cuộc tình chén bát” để tặng cho...
     Đăng bỏ lửng câu nói. Mọi người ồ lên thích thú:
     – Cho ai vậy ta?
     Đăng làm ra vẻ bí mật:
     – Các bạn kiên nhẫn nhe. Chờ nghe xong bài thơ biết cũng không muộn.
     Nam cất giọng:
 
     Em lẩn quẩn trong gian nhà bếp
     Anh thẹn thùng chén bát run tay
     Lim dim mắt bên em trời buông nắng
     Chữ nghĩa thầy giờ bỗng thoáng bay đi
    
     Chén bát đầy hình bóng em lẩn quẩn
     Cả hồn này bối rối hỏi vu vơ
     Nở nụ cười em buông lời thỏ thẻ
    “Rửa chén rồi mình tính chuyện mai sau”
 
     Nghe em nói cả hồn anh chất ngất
     Đống chén đầy mờ mắt ngỡ trầu cau
     Người yêu nhau trao tim lời hứa hẹn
     Mình yêu nhau chén bát giữ làm tin.
    
Nam vừa dứt lời, mọi người vỗ tay rào rào:
     – Rõ rồi, biết rồi.
     Thành đưa cao hai tờ giấy chép bài thơ, vờ hỏi:
      – Ai là người nhận huy chương nhỉ?
     Mọi người đồng thanh:
      – Quỳnh Tương và Hiển!
     Quỳnh Tương ngượng chín cả người, chưa biết phản ứng thế nào. Nàng len lén nhìn hai chị cầu cứu. Tiếng Hiển chậm rãi:
      – Cám ơn các bạn đã tặng bài thơ cho mấy phi công lái dĩa bay. Hiển rất vui đã có thể đóng góp chén bát sạch để có được những bữa cơm ngon cho cả nhà. Hiển cũng cám ơn Quỳnh Tương về những buổi rửa chén bát thật thú vị.
     Chị Quỳnh Chi, chị của nàng góp lời:
     – Chi thay mặt bé Út của tụi này, cám ơn bài thơ của các thi sĩ vườn nhà. Cám ơn Hiển hay phụ giúp bé Út nha. Hôm nay, tụi này sẽ đảm trách chuyện rửa chén. Cho Hiển và Quỳnh Tương được nghỉ phép.
     Quỳnh Tương chẳng vui mừng vì được nghỉ phép. Chỉ thấy tiếc, mất một buổi mạn đàm của “hai đứa mình”. 
     Suốt thời gian trung học, Hiển và Quỳnh Tương là láng giềng, cùng ở chung tầng lầu trong ký túc xá. Nhưng hai đứa chẳng bao giờ chung bước đến trường. Mà cũng chẳng bao giờ cùng sớm hôm lo sách đèn. Hiển là “ngôi sao” toán lý, nức tiếng mấy lớp. Bởi vậy, mấy đứa bạn học vùng Trung Đông cứ xin tôn Hiển làm sư phụ. Thế mà, kết quả của bằng tú tài không như Hiển mong đợi, vì điểm thi vấn đáp quá thấp. Trường hợp của Hiển giống vài học sinh Việt khác: đọc và viết giỏi, nhưng nghe và nói lại gặp vấn đề. Có những giám khảo người Đức, họ ít dịp nghe người ngoại quốc, nhất là người Á châu nói tiếng Đức. Cho nên, nhấn giọng, phát âm không chính xác, giám khảo không hiểu, không chấm điểm được.
     Rời trường, bịn rịn chia tay, bạn bè trao đổi nhau địa chỉ, hẹn nhau mỗi năm hội ngộ một lần. Tính vậy thôi, đâu ai thực hiện được. Ai nấy còn bao nhiêu nỗi âu lo, trăn trở trước ngưỡng cửa đại học. Những năm cuối thập niên 80, chưa có điện thoại di động, chưa có internet. Những ai sống với gia đình, còn có điện thoại bàn. Những người tứ cố vô thân như Hiển, mượn tạm địa chỉ của người quen. Xin được chỗ học ở tỉnh nào, mới đến đấy tìm nơi ăn ngủ. Quỳnh Tương và hai người chị học cùng trường với Nhân ở Frankfurt, miền Trung nước Đức, nhưng khác ngành. Được thời gian ngắn, hai chị lập gia đình, theo chồng, đổi đi học ở tỉnh khác. Thỉnh thoảng, muốn gặp Nhân, nàng phải hẹn năm lần bảy lượt. Nhân kể, Hiển lận đận trong chuyện học hành. Do thiếu điểm, Hiển không được chọn đúng trường, đúng môn mình muốn học. Hiển lưu lạc về tận Konstanz, một tỉnh cực nam nước Đức, sát biên giới Thụy Sĩ. Nghe Nhân bảo, Hiển gởi lời thăm Quỳnh Tương, lòng nàng xôn xao nhớ những ngày tháng êm đềm nơi trường làng. Nàng nhờ Nhân chuyển lời hỏi thăm đến Hiển. Thời gian sau, mỗi người có những bận rộn riêng. Có lần Nhân gọi, nàng vắng nhà. Nhân nhắn tin. Nàng gọi lại Nhân. Không gặp Nhân. Nàng cũng gởi lời nhắn. Mà chẳng thấy Nhân gọi lại. Từ đấy, nàng mất luôn liên lạc với Nhân và cũng chẳng còn tin tức gì về Hiển. Nàng có bạn bè mới. Vào những dịp lễ cũng có tụ tập, ăn uống. Nhưng không còn không khí vô tư như thuở học trò. Lật cuốn Album có mấy tấm hình thuở trường làng, lòng Quỳnh Tương bâng khuâng nhớ trường xưa. Nhìn những tấm hình chụp chung với nhiều người, nàng đưa mắt dò tìm những khuôn mặt bạn bè. Trong hình, Hiển và Quỳnh Tương thường là người ở đàng đông, người ở đàng tây. Chắc tại vì, hồi đó, hai đứa có tịch, nên rục rịch, không dám đứng gần. 
     Bê Bê đã đến bên Quỳnh Tương tự lúc nào, khèo khèo vai áo nàng:
     – Dì Út, bây giờ mình phải về. Chút nữa con đi sinh nhật của bạn con.
     Cu Tí tường thuật:
     – Bê Bê nó ăn cái bánh táo của dì Út. Hồi nãy nó hỏi xin dì. Mà không nghe dì nói gì hết. Bánh này phải ăn nóng mới ngon. Bây giờ bánh vô bụng nó rồi.
     Nàng chần chờ, muốn lại xếp hàng, mua đại một món gì, rồi tiện dịp, đưa số điện thoại để Hiển liên lạc. Nàng nhìn về phía quầy, Hiển vẫn bận rộn với dãy khách hàng đang đứng chờ. Quỳnh Tương nhẹ nhàng bảo mấy đứa cháu:
     – Không sao. Bây giờ mình về nhà nhe.
     Nàng băn khoăn, không biết Hiển có kịp ngước lên, thấy nàng và đám cháu đang rời tiệm. Giữa tiếng lao xao cười nói của bầy trẻ, nàng bồi hồi đọc khẽ câu thơ: chút ngày xưa gặp tình cờ/ thoáng hương mùa cũ như vừa đâu đây**.

 

-- Hoàng Quân

 

* Hoa học trò, thơ Nhất Tuấn, nhạc Anh Bằng

** Thơ, Trần Thị Cổ Tích

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào. Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia: “Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.