Hôm nay,  

Phá Thai Và Đạo Đức Sinh Học: Các Nguyên Tắc Trong Tranh Luận Về Phá Thai Ở Hoa Kỳ

01/07/202200:00:00(Xem: 3062)
Picture1

ATLANTA, GA - 25 tháng 6: Mọi người diễu hành trên đường phố trong cuộc biểu tình phản đối phán quyết của Tòa án Tối cao trong Tổ chức Y tế Phụ nữ Dobbs v Jackson vào ngày 25 tháng 6 năm 2022 tại Atlanta, Georgia. Quyết định của Tòa án trong vụ Dobbs v Jackson Women's Health đã lật lại vụ án Roe v Wade 50 tuổi - loại bỏ quyền phá thai của liên bang. (Ảnh của Elijah Nouvelage / Getty Images)

 

ATLANTA, GA - 25 tháng 6: Mọi người diễu hành trên đường phố trong cuộc biểu tình phản đối phán quyết của Tòa án Tối cao trong Tổ chức Y tế Phụ nữ Dobbs v Jackson vào ngày 25 tháng 6 năm 2022 tại Atlanta, Georgia. Quyết định của Tòa án trong vụ Dobbs v Jackson Women's Health đã lật lại vụ án Roe v Wade 50 tuổi - loại bỏ quyền phá thai của liên bang. (Ảnh của Elijah Nouvelage / Getty Images)
 
Để chấm dứt những tranh cãi pháp lý xoay quanh việc phá thai sẽ đòi hỏi phải đạt được sự đồng thuận về mặt đạo đức. Nếu có thể trình bày rõ ràng quan điểm đạo đức của chúng ta và thấu hiểu quan điểm của người khác, tất cả các bên sẽ tiến đến gần hơn với một thỏa thuận có nguyên tắc. Bài tổng hợp này dựa theo các chi tiết phỏng dịch từ bài viết đăng trên The Conversation của Nancy S. Jecker, Giáo sư Đạo đức Sinh học và Nhân văn, School of Medicine, University of Washington, đã nghiên cứu các vấn đề đạo đức trong y học và chính sách y tế, bao gồm cả việc phá thai; và các vấn đề liên quan đến quyết định lật ngược án lệ Roe v Wade cuối tuần qua của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.

HOA KỲ – Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ cuối tuần qua đã lật ngược án lệ nổi tiếng Roe v Wade 1973 - bảo vệ quyền phá thai của phụ nữ trong ba tháng đầu mang thai, với tỉ lệ phiếu 5-4. Cuộc bỏ phiếu chấm dứt quyền phá thai được sự ủng hộ của 5 trong số 6 thẩm phán 'bảo thủ' của tòa án, trong khi Chánh án John Roberts và 3 thẩm phán 'cấp tiến' phản đối.

Quyết định đảo ngược này của tòa cao nhất nước Mỹ tạo phản ứng khác nhau cho cả hai phía của cuộc tranh luận về phá thai.

Lật ngược án lệ Roe kiện Wade từ lâu đã trở thành mục tiêu của những người bảo thủ Cơ đốc giáo và nhiều thành viên đảng Cộng hòa.

Trong vụ kiện năm 1970, bà Norma McCorvey, gọi là Roe, đã nêu bị đơn là Henry Wade, khi đó là công tố viên quận Dallas.

Khi đó, McCorvey, 22 tuổi, đã mang thai đứa con thứ ba được 5 tháng.

Vào ngày 22/1/1973, Tòa án Tối cao Mỹ ban hành phán quyết 7-2 trong vụ Roe kiện Wade.

Phán quyết ghi rằng các quyền riêng tư theo thủ tục tố tụng và các điều khoản về quyền bình đẳng của Tu chính án thứ 14 mở rộng tới quyết định phá thai của phụ nữ trong 3 tháng đầu của thai kỳ sẽ "không bị nhà nước can thiệp".

Sang năm 1992, Tòa tối cao Mỹ xử vụ Planned Parenthood v Casey (Planned Parenthood kiện Casey), tái khẳng định rằng theo hiến pháp, phụ nữ có quyền phá thai cho đến thời điểm thai nhi có khả năng sống sót ngoài tử cung.

Nhưng giờ đây, các thẩm phán quyền uy nhất Hoa Kỳ đã xem lại án lệ Roe kiện Wade cho phép việc phá thai được thực hiện trước khi thai nhi có thể tồn tại bên ngoài tử cung - từ 24 đến 28 tuần của thai kỳ.

Bằng cách xóa bỏ phá thai như một quyền hiến định, phán quyết của Tòa tối cao Mỹ khôi phục khả năng các bang sẽ thông qua luật cấm phá thai, gồm 26 tiểu bang được coi là chắc chắn hoặc có khả năng cấm phá thai tại Mỹ.

Ba thẩm phán tòa tối cao - Stephen Breyer, Sonia Sotomayor và Elena Kagan - là phe 'cấp tiến' bỏ phiếu phản đối nhóm 'bảo thủ' thắng thế tại tòa tối cao.

Phán quyết ngày 24/6 của Tòa tối cao Mỹ đánh dấu một chiến thắng được chờ đợi từ lâu của những người chống phá thai. Những người ủng hộ quyền phá thai nói rằng việc lật ngược án lệ 1973 sẽ có tác động xấu, ảnh hưởng sâu rộng đối với phụ nữ da đen và gốc Latin, những người có nhiều khả năng thiếu tiền và không có điều kiện ra khỏi tiểu bang để phá thai.
 
Các cuộc tranh luận gay gắt về phán quyết thường bị chi phối bởi chính trị. Ít có người chú ý đến vấn đề đạo đức hơn, dù đó mới chính là cốt lõi của những tranh cãi.

Các phương pháp tiếp cận đạo đức sinh học đối với việc phá thai thường tuân theo 4 nguyên tắc: tôn trọng quyền tự chủ của bệnh nhân (Patient autonomy); tránh làm điều gây hại (nonmaleficence); làm điều có lợi (beneficence); và công lý (justice). Những nguyên tắc này được phát triển lần đầu tiên những năm 1970 để hướng dẫn cho các nghiên cứu liên quan đến các đối tượng là con người. Ngày nay, chúng là hướng dẫn cần thiết cho nhiều bác sĩ và nhà đạo đức học trong các vụ kiện tụng liên quan tới y tế.

Quyền tự chủ của bệnh nhân (Patient’s autonomy)

Nguyên tắc đạo đức về quyền tự chủ quy định rằng bệnh nhân có quyền tự quyết định về việc chăm sóc y tế cho mình khi có thể. American Medical Association’s Code of Medical Ethics công nhận quyền “được biết thông tin và đặt câu hỏi về các phương pháp điều trị được khuyến nghị” cho bệnh nhân để họ “cân nhắc kỹ lưỡng và đưa ra các quyết định mình được chăm sóc như thế nào.” Sự tôn trọng quyền tự chủ được ghi nhận trong các luật về sự đồng ý được nhận thông báo, bảo vệ quyền của bệnh nhân được biết các lựa chọn y tế có sẵn và đưa ra quyết định theo ý nguyện của họ.

Một số nhà đạo đức sinh học coi việc tôn trọng quyền tự chủ hỗ trợ cho quyền lựa chọn phá thai, lập luận rằng nếu một người mang thai muốn kết thúc thai kỳ thì nhà nước không nên can thiệp. Theo cách giải thích của quan điểm này, nguyên tắc tự chủ có nghĩa là một người sở hữu cơ thể họ và được tự do quyết định những gì xảy ra bên trong và với cơ thể họ.

Những người phản đối việc phá thai không nhất thiết phải tranh cãi về tính hợp lý của việc tôn trọng quyền tự chủ của mọi người, nhưng thay vào đó, họ có thể không đồng ý về cách giải thích nguyên tắc này. Một số người coi một thai phụ đang mang thai là “hai bệnh nhân” – người mang thai và thai nhi.
Một cách để ‘giảng hòa’ cho các quan điểm đối lập này, triết học gia Jeff McMahan có viết, một con người “ngày càng có ý thức, có suy nghĩ và tự chủ thì mức độ bị tổn hại mà họ có thể đối mặt cũng ngày càng tăng theo.” Theo quan điểm này, thai nhi ở giai đoạn cuối sẽ có nhiều quyền lợi hơn so với khi vừa mới thụ tinh, và do đó, việc phá thai diễn ra càng ở giai đoạn cuối, thì càng gây hại tới lợi ích phát triển của thai nhi. Ở Hoa Kỳ, có 92.7% các ca nạo phá thai xảy ra ở tuần 13 của thai kỳ hoặc sớm hơn, lúc này quyền của người mang thai thường có thể cao hơn quyền của thai nhi. Tuy nhiên, ở giai đoạn sau của thai kỳ, các quyền được quy cho thai nhi có thể sẽ lớn hơn so với quyền của thai phụ. Việc cân bằng các tuyên bố này vẫn còn gây tranh cãi.

Tránh Gây Tổn Hại và Làm Điều Có Lợi

Nguyên tắc đạo đức “không gây tổn hại” nghiêm cấm việc cố ý làm tổn hại hoặc gây thương tích cho bệnh nhân. Nguyên tắc này đòi hỏi sự chăm sóc về mặt y tế để giảm thiểu nguy hiểm. Tránh Gây Tổn Hại (Nonmaleficence) thường được kết hợp với nguyên tắc lợi ích (Beneficence), nghĩa vụ mang lại lợi ích cho bệnh nhân. Cả 2 nguyên tắc này nhấn mạnh đến việc làm nhiều điều tốt hơn là gây hại.

Giảm thiểu nguy cơ gây hại là công cụ chính Tổ chức Y tế Thế giới WHO sử dụng để phản đối việc cấm phá thai, vì những người mang thai đối mặt với các rào cản phá thai thường tìm đến các phương pháp không an toàn, đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong và bệnh tật, vốn có thể tránh được, ở các bà mẹ trên toàn thế giới.

Mặc dù 97% ca nạo phá thai không an toàn xảy ra ở các nước đang phát triển, nhưng với các nước đã phát triển bị thu hẹp quyền nạo phá thai, nó cũng tạo ra những tác hại khôn lường. Thí dụ, ở Ba Lan, các bác sĩ lo sợ bị truy tố đã do dự tiến hành điều trị ung thư trong thời kỳ mang thai, hoặc loại bỏ thai nhi sau khi người mang thai bị vỡ ối sớm trước khi bào thai còn sống. Tại Hoa Kỳ, luật phá thai hạn chế ở một số tiểu bang, như Texas, có quy định phức tạp về chăm sóc y tế đối với những ca sẩy thai và mang thai với nguy cơ cao, khiến tính mạng của thai phụ gặp rủi ro.

Tuy nhiên, những người dân Hoa Kỳ ủng hộ việc lật ngược án lệ Roe chủ yếu lo ngại về tác hại đối với thai nhi. Bất kể thai nhi có được coi là một người hay không, thai nhi đều có thể mong muốn tránh bị đau đớn. Vào cuối thai kỳ, một số nhà đạo đức học cho rằng việc chăm sóc nhân đạo cho thai phụ nên bao gồm giảm thiểu cơn đau cho thai nhi bất kể thai kỳ có tiếp tục hay không. Khoa học thần kinh cho rằng khả năng trải nghiệm cảm giác hoặc cảm giác của con người phát triển từ tuần 24 đến 28 thai kỳ.

Công lý

Công lý, một nguyên tắc cuối cùng của đạo đức sinh học, đòi hỏi phải giải quyết các trường hợp tương tự một cách tương tự. Nếu người mang thai và thai nhi được xem là bình đẳng về mặt đạo đức, nhiều người cho rằng sẽ là bất công khi giết thai nhi để tự vệ, nếu bào thai đe dọa tính mạng của người mang thai. Những người khác cho rằng ngay cả khi tự vệ, việc chấm dứt sự sống của thai nhi cũng là sai, vì thai nhi không phải chịu trách nhiệm về mặt đạo đức đối với bất kỳ mối đe dọa nào mà việc mang thai gây ra.

Tuy nhiên, những người bảo vệ quyền phá thai chỉ ra rằng ngay cả khi phá thai dẫn đến cái chết của một người vô tội (thai nhi), thì đó không phải là mục tiêu của nó. Nếu đạo đức của một hành động được đánh giá theo mục tiêu của nó, thì việc phá thai có thể được biện minh trong những trường hợp hành động đó thực hiện với mục đích đạo đức, chẳng hạn như cứu sống một người phụ nữ hoặc bảo vệ khả năng chăm sóc những đứa con đang hiện hữu của một gia đình. Những người bảo vệ quyền phá thai cũng cho rằng ngay cả khi chấp nhận rằng thai nhi có quyền được sống, thì một người cũng không có quyền được có tất cả mọi thứ họ cần để sống. Thí dụ: có quyền được sống không đồng nghĩa với việc có quyền đe dọa sức khỏe hoặc tính mạng của người khác, hoặc lấn át các kế hoạch và mục tiêu cuộc sống của người khác.

Công lý cũng giải quyết vấn đề phân chia đồng đều giữa lợi ích và gánh nặng. Trong số các quốc gia giàu có, Hoa Kỳ có tỷ lệ tử vong liên quan đến mang thai và sinh con cao nhất. Nếu không có sự bảo vệ của pháp luật đối với việc phá thai, việc mang thai và sinh con đối với phụ nữ Hoa Kỳ có thể gặp nhiều nguy hiểm hơn. Các nghiên cứu cho thấy phụ nữ có nhiều khả năng tử vong khi đang mang thai hoặc ngay sau khi sinh, ở những bang có chính sách hạn chế phá thai nhất.

Các nhóm cộng đồng thiểu số sẽ bị thiệt thòi nhiều nhất nếu quyền được phá thai bị hạn chế, vì họ sử dụng dịch vụ phá thai với tỷ lệ không tương xứng. Thí dụ, ở Mississippi, người da màu chiếm 44% dân số, nhưng tới 81% số ca phá thai. Các bang khác cũng tương tự, khiến một số nhà hoạt động y tế kết luận rằng “hạn chế phá thai là phân biệt chủng tộc.”

Các nhóm yếu thế khác, bao gồm cả các gia đình có thu nhập thấp, cũng có thể bị ảnh hưởng nặng nề bởi các quy định hạn chế phá thai vì chi phí phá thai dự kiến sẽ đắt đỏ hơn.

Không bàn về chính trị, phá thai đặt ra những câu hỏi sâu sắc về đạo đức vẫn chưa có lời giải đáp, trong khi các tòa án lại được phép giải quyết bằng cách sử dụng công cụ luật vô cảm. Nghĩ theo hướng này, thì phá thai “bắt đầu với lập luận đạo đức mà lại kết thúc thành tranh luận pháp lý,” theo cách nói của học giả luật và đạo đức Katherine Watson.

Để chấm dứt những tranh cãi pháp lý xoay quanh việc phá thai sẽ đòi hỏi phải đạt được sự đồng thuận về mặt đạo đức. Tóm lại, việc trình bày rõ ràng quan điểm đạo đức của chúng ta và thấu hiểu quan điểm của người khác sẽ có thể đưa tất cả các bên đến gần hơn với một thỏa thuận có nguyên tắc.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thế giới đã phải đối mặt với muôn vàn hỗn loạn và khó khăn trong những năm 2020. Sau đại dịch COVID là các cuộc xung đột và chiến tranh nổ ra ở Châu Âu, khiến cho giá cả lương thực và nhiên liệu tăng cao chưa từng thấy. Ngoài ra, biến đổi khí hậu đang gây ra những sự kiện thiên tai thảm khốc chưa từng có. Những cụm từ “chưa từng có,” hay “chưa từng thấy” đã trở nên quá quen thuộc đến mức nhàm tai.
“Trung Cộng muốn đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam để đánh lạc hướng và cầm chân quân đội Bắc Việt, ngăn chận cuộc tổng tấn công Miền Nam đang tiến hành,” Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bửu Viên nói với chúng tôi ngay sau cuộc rút quân khỏi Pleiku (15/2/1975). Ít lâu sau, lại được nghe Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết sau một cuộc Họp Nội Các, rằng: “TC có liên lạc và đề nghị một kế hoạch để tiếp cứu VNCH, nhưng TT Thiệu đã từ chối.” Vào thời điểm ấy thì chúng tôi cho rằng câu chuyện TC muốn can thiệp để ngăn chận cuộc tấn công của BV là hoang tưởng, viển vông nên không để ý, và sau này cũng quên không hỏi thẳng TT Thiệu.
Vào thế kỷ 18, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party) được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) hoạt động ở Hoa Kỳ do Thomas Jefferson và James Madison thành lập, nhằm chống lại chủ trương và chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Luật Sư Alexander Hamilton hoạt động mạnh về kinh tế, xã hội, ngoại giao...
Các di tích bằng đá gọi là megalith rải rác khắp nơi trên thế giới, tiếng Việt gọi là “cự thạch” (“cự” có nghĩa là lớn như trong cự phách, cự đại, cự phú, dịch prefix mega; thạch là đá)...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Bước vào tháng Tư, mời đọc bài bài viết đã đăng trên báo xuân Việt Báo Ất Dậu (2005), vừa được tác giả gửi lại bản có hiệu đính.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng và chưa có bảng thống kê về ngôn ngữ, kể từ khi có mặt loài người sống trên hành tinh trái đất này. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn ngôn ngữ khác biệt nhau, và chưa có ai qủa quyết con số chính xác về ngôn ngữ từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của xã hội con người...
Cho dù Hoa Kỳ trong thế yếu không còn thúc đẩy Trung Quốc dân chủ hóa nhưng bù lại cả hai chính quyền Bush (con) và Obama đều bang giao với Trung Quốc như một đối tác trách nhiệm (responsible party). Thực tế trái ngược vì tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh tăng theo đà phát triển kinh tế nên Trung Quốc không còn muốn nép mình trong trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo...
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
Vào thập niên 1970 kinh tế và dân số Ấn Độ và Trung Quốc tương đương với nhau nhưng rồi 30 năm sau đó tăng trưởng bên Tàu vượt xa Ấn. Nếu so sánh Trung Quốc với nhiều nước đang mở mang khác như Ai Cập, Brazil, Indonesia…kết quả đều tương tự. Câu hỏi đặt ra nơi đây tại sao tham nhũng ở Trung Quốc không cản trở tăng trưởng, mà trái lại nền kinh tế bốc hỏa nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại?
Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặt chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.