Hôm nay,  

Văn Chương Trên Giàn Hỏa Thiêu

25/02/202200:34:00(Xem: 2113)

Hình bài chính trang nhất_tay phải

 

Tháng Hai, năm 2022, tờ The Atlantic công bố một bản tin mà người quan tâm đến chữ nghĩa sách vở không thể không nhíu mày suy nghĩ. Theo bản tin, Dân biểu tiểu bang Texas, ông Matt Krause, mới đây đã liệt kê một danh mục hơn 800 nhan đề sách bị liệt vào loại cấm lưu hành trong trường học, trong đó có rất nhiều sách với nội dung liên quan đến vấn đề chủng tộc và đồng tính (gọi chung là LGBTQ). Liền sau đó một nghị sĩ tiểu bang Oklahoma cũng đưa ra một dự luật cấm, không cho các thư viện trường học lưu trữ các sách có chủ đề và nội dung bị xem là “đồi trụy”. Đồng thời, Hội đồng Giáo dục quận hạt McMinn, bang Tennessee đưa ra sắc lệnh cấm học sinh không được phép đọc cuốn Maus của tác giả Art Spiegelman. (Maus là một tác phẩm hình họa, được trao giải Pulitzer, một cuốn tự truyện về người Do Thái bị Đức Quốc xã đối xử tàn bạo như con thú trong các trại tập trung, lò sát sinh thời Đệ Nhị Thế chiến).
 
Vẫn theo bài báo trên, Hội đồng Giáo dục Quận hạt đưa ra lập luận biện minh cho việc cấm chỉ của họ, rằng: Họ không phản đối sách vở nói về vụ thảm sát người Do Thái, nhưng họ không đồng ý với hình thức trình bày câu chuyện với những hình ảnh bạo hành, con người lõa lồ, hành vi tục tĩu và thô bạo như con thú, v.v. Họ kết luận sách vở kiểu này không tương thích với thanh thiếu niên đang theo học tại nhà trường.
 
Thực chất, đây là một vụ kiểm duyệt, không hơn không kém. Kiểm duyệt sách văn học (các nhan đề sách bị cấm đa phần là sách văn học) có nguyên ủy từ sự không hiểu hay không chịu hiểu từ phía nhà cầm quyền. Cấm xuất bản, trù giập, cô lập, gây khó dễ, bỏ tù nhà văn… là những biện pháp thường thấy nhà cầm quyền đem ra áp dụng để giập tắt tiếng nói phản biện, không theo đúng chính sách, có hại cho sự tồn tại của chế độ. Điều này, ở Việt Nam, đứa trẻ nít cũng biết, thiết tưởng tôi chẳng cần nói gì thêm.
 
Kiểm duyệt sách là sản phẩm của các chế độ phong kiến. Dưới đời Thuận Trị nhà Thanh bên Tàu, tại các nhà học của phủ huyện có dựng bia đá ghi rõ: sinh viên không được “công khai phát ngôn;” không được “lập hội kiết xã;” không được “san khắc văn tự.” Nghĩa là không được tự do ngôn luận; không được tự do lập hội; không được tự do xuất bản. Kim Thánh Thán, nhà phê bình lớn nhất trong văn học sử Trung quốc, sinh sống vào thời này, bị tội chết vì đã vi phạm cấm lệnh. Thế nhưng chẳng gì mỉa mai và chua xót hơn, những cấm lệnh dưới triều đại phong kiến ấy ngày hôm nay vẫn tồn tại một cách nghiệt ngã trong xã hội Việt Nam cộng sản.
 
Kiểm duyệt là hành động sai khiến bởi bản năng nhiều hơn là lý trí, xuất phát từ nỗi lo sợ của kẻ nắm quyền lực những ý tưởng trong sách vở sẽ làm tổn hại đến chế độ, sức mạnh, quyền cai trị của nhà cầm quyền, và họ nhân danh ý thức hệ (của họ) để thẳng tay đàn áp. Ai cũng biết vụ kiểm duyệt sách lớn nhất, kinh khiếp nhất trong lịch sử loài người là vụ đốt sách, giết Nho sinh do Tần Thủy Hoàng Đế nghe lời ông thừa tướng Lý Tư thực hiện. Tất cả sách vở của Nho gia từ nhiều trăm năm trước đó do Khổng Tử và các môn đệ của ngài san định bị đem ra đốt “để làm trăm họ ngu tối khiến cho thiên hạ không được lấy điều xưa mà chê ngày nay” như Tư Mã Thiên viết trong bộ Sử Ký vĩ đại của ông.
 
Bên trời Tây, đốt sách với mục đích triệt tiêu mọi di sản văn hóa của một dân tộc hay một sắc dân, phần nhiều chỉ xảy ra vào thời Cổ/Trung đại như vụ đốt thư viện Alexandria xứ Ai Cập thời đế quốc La Mã; vụ đốt thư viện thành Baghdad năm 1258; vụ đốt dược thư của các sắc dân bản xứ Mỹ châu Aztec, Maya sau khi thực dân Tây Ban Nha chinh phục Tân Thế giới.
 
Kỳ thực, phần thư là hành động man rợ, có thể sánh với hành động ăn gan nuốt mật kẻ đồng loại. Con người sớm biết điều đó nên sau Tần Thủy Hoàng mãi đến đời Càn Long nhà Thanh mới xảy ra vụ thứ hai, nhưng vụ này nhỏ hơn nhiều và bị đem ra đốt phần nhiều là sách vở bài xích người Mãn Châu do người Hán tộc viết nhằm mục đích khơi dậy lòng ái quốc của người Hán hầu đánh đuổi người Mãn dị tộc ra khỏi đất nước họ.
 
Đông hay Tây, những vụ đốt sách như thế trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại xảy ra không nhiều, bởi ngay cả ở thời Cổ đại người ta cũng đã mơ hồ cảm thấy đốt sách là hành vi tồi tệ đáng khinh bỉ, nó chỉ để lại vết nhơ khôn  tẩy xóa  cho hậu thế và bị xem là bề trái đen tối ngạo mạn của cái-gọi-là văn minh. Mặc dù rất nhiều lần trong lịch sử nhân loại, người ta chém giết nhau không gớm tay, nhưng đốt sách thì không xảy ra bao nhiêu.
 
Hơn nữa, làm sao dùng ngọn lửa “thiêu hủy” được cái vô hình tướng? Làm sao “thiêu hủy” được tư tưởng trong đầu óc con người? Sau khi Tần Thủy Hoàng Đế đốt Nho kinh, giết Nho sinh, tư tưởng Nho giáo ngay sau đó, vào thời nhà Hán, phát triển như thế nào trên đất Tàu thì ta cũng đã biết. Và ngày nay tư tưởng khao khát tự do của người dân Hong Kong vẫn mãnh liệt hơn bao giờ cho dù nhà nước cộng sản Bắc Kinh không ngớt tìm đủ mọi biện pháp bịt miệng họ, kể cả bắt bớ bỏ tù văn nghệ sĩ.
 
Thi thư dù lửa bạo Tần có thiêu.
 
Câu thơ của Vũ Hoàng Chương nói lên cái khí khái của những con người vẫn còn tin tưởng vào sức mạnh của chữ trước ngọn lửa của bạo lực.
 
Nhưng cũng chính bởi thế tôi đã rất kinh ngạc khi biết có một vụ đốt sách xảy ra tại Nam Việt Nam ngay sau 1975. Học giả Nguyễn Hiến Lê thuật lại sự việc này trong bộ Hồi Ký của ông xuất bản năm 1988 tại Mỹ, như sau:
 
“Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền [Cộng sản] là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn Hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Qúy Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; từ điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng văn hóa ở bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc. Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các từ điển thôi. Như vậy, chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lý, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh Phụ Ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo…”
 
Thế kỷ XX chứng kiến hai vụ đốt sách: một, Quốc xã Đức thập niên 30; hai, Cộng sản Việt Nam thập niên 70. Vụ thứ nhất, cả thế giới rùm beng phản đối, kết án, để rồi sau đó xúm lại đập tan tành Hitler và bè lũ. Vụ thứ hai, chẳng ai thèm mở miệng, một phản ứng tiêu cực chiếu lệ cũng không, và những kẻ đốt sách cho đến ngày nay vẫn sống nhởn nhơ, trâng tráo. Lịch sử trong men say chiến thắng lên cơn đồng thiếp giở trò cưỡng bức vô-văn-hóa cực kỳ man rợ.
 
Lịch sử ấy được nhà văn Ngô Thế Vinh thuật lại nhiều lần trong các tác phẩm của ông, viết với nhiều đau xót và phẫn nộ. Là nhà văn lại phải chứng kiến cái trò phản-văn-hóa man rợ đó, Ngô Thế Vinh đau xót là phải. Trong cuốn Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa, ông miêu tả cảnh đốt sách và biểu lộ nỗi phẫn nộ của mình như sau:
 
“[…] Những ngày sau 30/4/1975, hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ, tới tòa báo Bách Khoa cũng là nơi cư ngụ của anh chị Lê Ngộ Châu. Trước khách lạ, đứa con gái nói giọng hãnh tiến: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích tới sáng.” Người dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng đêm đó có thể bị tụi nó coi là Ngụy. Những tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30” này chỉ như phó bản đám Hồng Vệ Binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên. Cũng chính những đám này là thành phần khích động chủ lực trong chiến dịch lùng và diệt tàn dư văn hóa Mỹ-Ngụy, chúng giẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng chồng sách rồi tới cả những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa hề đọc, trong đó có cả một tủ sách Học Làm Người. Sách của những “tên biệt kích văn nghệ” còn được trưng bày trong tòa nhà triển lãm Tội Ác Mỹ Ngụy cùng với vũ khí chiến tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương Nghiễm Mậu, có cả cuốn Vòng Đai Xanh của người viết. […]”
 
Khác với Nguyễn Hiến Lê – tuy khá bất bình nhưng chỉ miêu thuật sự việc với đôi mắt bàng quan – nhà văn Ngô Thế Vinh đã không che giấu được sự phẫn nộ trong lòng khi viết những dòng chữ trên.
 
Phẫn nộ là phải.
 
Đồng ý, có kẻ say men chiến thắng không kềm chế được bản năng thú tính.
 
Đồng ý, có kẻ ăn theo, tâng công dua nịnh hầu kiếm chút bổng lộc, hư danh.
 
Đồng ý, trí thức miền Bắc lúc bấy giờ dửng dưng, xem như không phải chuyện của mình.
 
Đồng ý, trí thức miền Nam thuộc chế độ cũ thì bó tay bất lực vì đang nằm trong lao tù khắp ba miền đất nước.
 
Nhưng còn trí thức miền Nam thiên tả (trong cũng như ngoài nước), những người còn chút tiếng nói trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam như nữ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, những người có học vị bên Tây, bên Mỹ, thì sao không thấy ai lên tiếng?
 
Đó cũng là vết ô nhục muôn đời khôn tẩy xóa!
 
*
 
Cái khôi hài là sự kiểm duyệt đôi khi đến từ một tập thể con người trong xã hội văn minh nhưng với khối óc u mê, cực đoan, bảo thủ và đầy thành kiến. Bạn nghĩ nước Mỹ tự do bình đẳng từ ngày lập quốc năm 1776 đến giờ không có kiểm duyệt ư? Bạn sai. Cuốn tiểu thuyết kinh điển The Invisible Man của nhà văn Ralph Ellison bị cấm, không được đem ra giảng dạy tại nhiều trường đại học Mỹ chỉ vì có chữ “nigger” trong sách! Một ta-bu thời đại. Những tác phẩm kinh điển của nhà văn Henry Miller, như cuốn Tropic of Cancer, lúc đầu cũng bị cấm xuất bản ở Mỹ vì bị xem là vô luân, và tác giả đã phải tìm nhà xuất bản bên Pháp để đưa sách mình đến tay độc giả Mỹ.
 
Và thật kinh ngạc những tác phẩm tiểu thuyết sau cũng có thời bị cấm đem vào nhà trường: The Catcher in the Rye, The Scarlet Letter, Huckleberry Finn, Harry Potter, The Diary of Anne Frank, Animal Farm, To Kill a Mockingbird, The Da Vinci Code, The Grapes of Wrath. Các ông bà mặt mày xấu xí khó đăm đăm trong các Hội đồng Giáo dục đưa ra viện cớ là những cuốn sách đó không tốt đẹp cho tâm hồn thanh thiếu niên! Luận điệu đó có khác gì với ông đạo Khomeini khi ông hạ chiếu chỉ fatwa truy sát, tầm xử nhà văn Rushdie? Khác biệt duy nhất là tác giả các cuốn sách nêu trên, nếu còn tại thế thì sinh mạng họ chẳng bị ai đe dọa thôi.
 
“Tôi không thích những điều anh/chị viết vì nó không phù hợp cảm quan nghệ thuật, căn bản luân lý, tín ngưỡng, quan điểm chính trị… của tôi, và tôi nhất quyết bịt miệng anh/chị. Tôi có quyền làm thế, bởi tôi nhân danh đấng sáng tạo ra tôi và việc làm của tôi được chứng thực bởi những người đứng sau lưng tôi.”
Hành vi, cung cách thô bạo đó của không ít người trong xã hội, bạn đừng tưởng chỉ xảy ra thời Trung cổ. Nó vẫn hung hãn hiện ra như con dao nhọn lúc nào cũng gờm sẵn bên sườn chúng ta ngày hôm nay.
 
Và chính vì thế tôi chẳng ngạc nhiên chút nào khi đọc bài báo nói trên trên tờ The Atlantic về những vụ cấm sách mới đây, đầu năm 2022 này, ngay giữa mùa đại dịch Covid-19, tại các tiểu bang bảo thủ, có nhiều thành kiến về chủng tộc và chính trị, ở miền Nam Hoa Kỳ như Texas, Oklahoma, Tennessee… Tờ báo cũng đưa ra hơn chục nhan đề sách tiêu biểu bị cấm hay sắp bị cấm, phần lớn là sách văn học, có cuốn từng được xem là kinh điển của văn học Mỹ. Danh sách dài lắm, dưới đây chỉ là những cuốn điển hình:
 
To Kill a Mockingbird, tác giả Harper Lee
The Handmaid’s Tale, tác giả Margaret Atwood
The Bluest Eye, tác giả Toni Morrison
Fallen Angels, tác giả Walter Dean Myers
Heather Has Two Mommies, tác giả Lesléa Newman
Maus, tác giả Art Spiegelman
Speak, tác giả Laurie Halse Anderson
His Dark Materials, tác giả Philip Pullman
Looking for Alaska, tác giả John Green
Between the World and Me, tác giả Ta-Nehisi Coates
The Hate U Give, tác giả Angie Thomas
Gender Queer, tác giả Maia Kobabe
In the Dream House, tác giả Carmen Maria Machado
All Boys Aren’t Blue, tác giả George M. Johnson
 
Ở Mỹ, chuyện sách bị cấm từng xảy ra cả trăm năm nay. Cuốn Maus và các sách khác không là những cuốn sách đầu tiên hay sau cùng bị cấm đọc, chúng là nạn nhân của một ý thức hệ cứng nhắc đầy thiên kiến, thù ghét. Những tác phẩm văn học trên đây đôi lúc phải sử dụng đến những ảnh tượng khốc liệt, tàn bạo để minh tường dụng ý của tác giả, nhưng đó là văn học, và hiểu sai văn học là điều khá thường tình xảy ra trong cuộc sống.
 
– Trịnh Y Thư
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lily, cô gái con người quản gia, thực sự không giây phút nào được nghỉ chân. Cô vừa mới đưa một quý ông vào gian phòng nhỏ phía sau văn phòng ở tầng trệt và giúp ông cởi áo khoác ngoài thì tiếng chuông cửa rè rè lại vang lên và cô lại phải tất tả bước dọc theo hành lang trống trải để đón một vị khách khác vào.
Nhân câu hỏi ông Đặng Minh Phương nêu ra, xin được đóng góp chút ý kiến khiêm nhượng vào chuyện này. Để giúp các bạn trẻ từ trước chưa có hoàn cảnh biết nhiều về mấy câu thơ trên, tôi xin được tóm lược câu chuyện từ đầu.
Chủ đề chính kết nối các truyện ngắn trong tuyển tập Beyond Borders (Vượt Qua Những Biên Giới) (nxb Da Màu Press) là khái niệm phức tạp và đa diện về biên giới. Như tựa của tuyển tập, mỗi câu chuyện hứa hẹn một khám phá đặc thù về khái niệm này. Biên giới là gì? Liệu đó có phải là một ranh giới hữu hình, như một hàng rào hay trạm kiểm soát phân chia các không gian địa lý và chủng tộc? Hay thuật ngữ này cũng đã khai triển/mở rộng để bao hàm những ranh giới hầu như vô hình và vô thức, như các cấu trúc ngôn ngữ, xã hội và văn hóa đã định hình bản sắc và mọi liên hệ cá nhân và tập thể? Có lẽ trong thế giới ngày càng kết nối chặt chẽ của chúng ta, biên giới hiện diện khắp nơi, cả hiển nhiên lẫn tiềm ẩn.
Từ khi du học ở Pháp vào đầu thập niên 1950’, trở về Việt Nam làm việc cho hãng Shell rồi sang Pháp làm việc cho đến khi về hưu và định cư cho đến nay… cả cuộc đời nhà văn Tiểu Tử gắn bó với tiếng Pháp nhưng khi cầm bút nơi xứ người với văn phong đặc biệt “miền Nam”, giản dị, ngắn gọn, chân chất, dí dỏm từ giọng văn và các mẩu đối thoại. Về tiểu sử cũng ngắn gọn: Tiểu Tử tên thật là Võ Hoài Nam, sinh năm 1930 tại Gò Dầu Tây Ninh. Ông là con trai duy nhứt của nhà giáo Võ Thành Cứ, giáo sư trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Tốt nghiệp Kỹ sư, Marseille năm 1955. Dạy lý hoá trung học ở ngôi trường nầy niên khóa 1955-1956. Tháng 10/1956 làm việc cho hãng dầu Shell Việt Nam từ năm tháng 10 1956 đến 30/4/1975. Trong 3 năm (1975-1978) được trưng dụng làm việc cho hãng nầy. Trong thời gian đó, vượt biên 3 lần nhưng thất bại. Vượt biên cuối năm 1978. Định cư ở Pháp từ đầu năm 1979. Làm việc cho hãng đường mía của Côte d’ Ivoire (Phi Châu) 1979-1982. Làm việc cho hãn
Hôm nay là ngày lễ Manman Aloumandia, ngày giỗ tổ tiên của người Haiti vào cuối tháng Chín. Nhà nào cũng chuẩn bị thức ăn truyền thống và hành lễ cảm tạ ông bà đã giữ gìn an toàn cho con cháu, nhất là sau vụ bị hàm oan, họ càng thấm thía sự bình yên hơn. Di dân, hầu hết là tha phương bất đắc dĩ, như phận gái đi lấy chồng, mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu.
Những tia nắng hồng cuối cùng đã tắt trong ánh hoàng hôn chiều tà nhưng bầu trời vẫn trong sáng từ một thứ ánh sáng huyền bí; vẫn chưa có vì tinh tú nào xuất hiện, tuy nhiên màn đêm hôm nay hẳn là một trong những buổi chiều tối đẹp nhất mà cả thế gian này chưa từng bao giờ chứng kiến. Bên phía đại dương, nhìn như có vẻ tối tăm sẫm màu hơn dưới bầu trời rực sáng; bóng tối hoặc ánh màu phản chiếu không còn in trên nền đất liền màu nâu đậm nữa; toàn bộ phần vách đã gần đó giờ chỉ còn là một khối khổng lồ, là một khối đá hoa cương khô khan chênh vênh, nguy hiểm. Con đường mòn gồ ghề trắc trở chạy men theo bờ biển dọc theo những tảng đá, nơi đó những con sóng rì rầm đập vào không ngớt, nơi đây những người dân làng có việc cần hoặc những người chăn cừu đưa bọn cừu hoang dã chưa được thuần thục đã dẫm đạp lên ngàn vạn lần.
Cuốn sách này không ở đâu có, kể cả thư viện quốc hội Hoa Kỳ. Chỉ bạn có và người Việt có. Nhưng bạn không thể đọc hết hơn ngàn trang trong một lần. Chỉ đọc bài nào vừa ý. Những bài khác cứ hẹn tái ngộ, vì, có khi, một hôm bạn sẽ thích một bài mà bạn không thích trước đây. Có thích mới muốn đọc nhưng thích là động lực tâm tình giới hạn trí tuệ.
Trong số khách đến viếng chùa, có người con gái chừng độ tuổi trăng tròn, không son phấn điểm trang, nhưng nàng trông thật diễm lệ. Nàng nâng niu từng cành hoa mẫu đơn. Trong lúc sơ ý nàng vướn gẫy một cành hoa. Người coi vườn bắt trói nàng đòi tiền chuộc tội.
Lần cuối, nghĩa là lần mới nhất, không phải là lần cuối cùng, tôi gặp Trương Vũ tại nhà của Trần Vũ, khi Trương Vũ ghé Quận Cam, trước khi anh bay lên Bắc California để thăm chị ruột của anh, họa sĩ Trương Thị Thịnh. Lúc đó là, có lẽ năm ngoái. Lúc đó, mối giao tình của Trương Vũ và tôi đã trải rộng từ hơn ba thập niên, từ những ngày tôi còn ở Miền Đông Hoa Kỳ. Thời xa xưa, tôi gọi anh bằng tên là anh Sơn, anh Trương Hồng Sơn, khi nhìn anh như một nhà khoa học. Và nhiều năm sau, khi đọc nhiều bài viết của anh trên Văn Học và Hợp Lưu, tôi gọi anh qua bút hiệu là Trương Vũ. Rồi vài năm gần đây là nhìn anh như họa sĩ. Thời gian đã cho anh hiển lộ qua nhiều tài năng, và với rất nhiều tóc bạc. Nhưng nụ cười của Trương Vũ vẫn hiền lành, đôi mắt vẫn tinh anh, cử chỉ và thái độ vẫn luôn là từ tốn, cẩn trọng, dịu dàng.
Trải qua gần bảy thập niên, từ cuối thập niên 1950’ đến nay, trong lãnh vực báo chí và văn chương, tên tuổi Trần Dạ Từ, Nhã Ca nổi bật, quen thuộc với giới báo chí, văn nghệ sỹ và độc giả từ miền Nam Việt Nam ở hải ngoại. Với nhiều bài viết về Trần Dạ Từ trên nhiều khía cạnh trong sự nghiệp và sáng tác nên nếu viết cũng là sự lặp lại, vì vậy trong bài viết nầy trích dẫn bạn văn, bạn tù đã sống gần gũi nhau đã viết về ông, nhất là bạn tù.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.