Hôm nay,  

Cung Tích Biền Ra Mắt Sách Mừng 65 Năm Cầm Bút

10/17/202109:35:00(View: 3468)

 

blank

Đặng Thơ Thơ (phải) nói về tác phẩm Cung Tích Biền (thứ 2 từ phải).

  

 

Nhà văn Cung Tích Biền hôm Thứ Bảy 16/10/2021 đã thực hiện buổi ra mắt sách tại quán Café & Té, Fountain Valley, với tham dự của nhiều văn nghệ sĩ.

Nhà văn Đặng Thơ Thơ trong lời giới thiệu nói rằng buổi ra mắt sách này cũng là tròn kỷ niệm 65 năm viết văn, và là tròn 55 viết văn với bút hiệu Cung Tích Biền.
 

Hiện diện trong buổi ra mắt sách có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, ca sĩ, họa sĩ… trong đó có:  Nhã Ca, Phạm Phú Minh, Trịnh Y Thư, Trịnh Thanh Thủy, Vương Trùng Dương, Nguyễn Thanh Huy, Đặng Thơ Thơ, Paulina Dam, ca sĩ Thu Vàng, Thân Trọng Mẫn, Đặng Phú Phong, Lê Giang Trần, Phạm Quốc Bảo, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Đình Thuần và phu nhân, Mai Tất Đắc và phu nhân, Lê Phước Bốn, Nguyễn Hà và phu nhân…

 

Cùng nổi bật trong buổi ra mắt sách là phu nhân của nhà văn Cung Tích Biền. Người sắp xếp, mệt nhọc nhất trong buổi ra mắt sách này là chị Hoàng Thi Kim, phu nhân của nhà văn, cũng là người mà nhà văn Cung Tích Biền từng ghi nhận rằng: “Từ năm 2000 đến nay Hoàng Thị ăn chay trường. Thuộc nhiều kinh Phật, nghiên cứu kinh Dịch, rất giỏi phong thuỷ. Sớm mai thường trực tụng kinh. Chiều chiều đi chùa. Nói chung, tôi xin cảm ơn Phật Bà Quán Thế âm.” (Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, trang 97) 

 

blank

Từ phải: Cung Tích Biền và phu nhân Hoàng Thị Kim, Nhã Ca, Đặng Thơ Thơ, Trịnh Y Thư (ngồi).

 

.

Trong các sách nhà văn Cung Tích Biền giới thiệu hôm Thứ Bảy có 3 sách được nhiều nhà phê bình văn học chú ý thời gian qua:

--- Bạch Hóa, tập truyện ngắn, 230 trang.

--- Nhạc Điệu Của Bầy Ong, tập truyện ngắn, 250 trang.

--- Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, tuyển tập các bài phỏng vấn nhà văn Cung Tích Biền thực hiện bởi Lý Đợi, Mặc Lâm, Đặng Thơ Thơ, Tuần báo mạng Da Màu, Phạm Viêm Phương, 328 trang.

.

blankBìa sách

.

Nhà văn Cung Tích Biền nói rằng ông trước giờ chưa từng ra mắt sách, nhưng qua đây là cơ duyên hy hữu nên muốn tiếng nói được nghe nhiều hơn. Ông dự kiến sẽ ra mắt 5 cuốn sách mới vào tháng 4/2022. Ông nói đó là những tác phẩm chưa từng được in chính thức ở Việt Nam, mà khi còn ở Việt Nam ông chỉ in chui một số với ấn phẩm hạn chế, đó là một thời vô cùng cực khổ, qua đây thật là hạnh phúc lớn lao.

 

Trả lời phỏng vấn riêng của Việt Báo, nhà văn Nhã Ca đã nói: “Trước 1975, cùng thời, đã đọc sách Cung Tích Biền. Sau 1975, hoàn toàn không gặp nhau. Gần đây, nhà văn Cung Tích Biền tới Hoa Kỳ, lại viết. Thế là lại đọc. Sẽ đọc 3 cuốn sách mới và biết rằng, lối viết Cung Tích Biền càng già như gừng, càng già càng cay. Mừng nhà văn Cung Tích Biền.”

Cả 3 sách trên đều do nhà xuất bản Thao Thao ấn hành. Độc giả có thể đặt mua ở email:

[email protected]

.

 

 

Trong tuyển tập truyện ngắn Bạch Hóa, nơi Phụ Lục 2, trang 226, có ghi nhận định của nhà thơ Du Tử Lê về văn chương Cung Tích Biền:

"Với tôi, Cung Tích Biền là một biệt lệ. Càng bước gần tuổi tám mươi, bút lực của ông càng sung mãn; với một tâm thái bát ngát minh triết, chứa chan những hồi chuông nhân bản, lai tỉnh xã hội càng lúc càng biến dạng. Quái thai.

Chọn cho mình một chân trời chữ nghĩa mới. Chân trời hư huyễn máu, xương, những trang văn của Cung Tích Biền như những tấm gương chói lọi nỗi buồn và niềm đau kín kẽ. Ông mặc khoác cho hư huyễn, cho ẩn dụ văn chương của ông, chiếc áo thời thế. Ông đi giầy, mang vớ cho hư huyễn truyện của ông... Rất nhiều thành tựu ngời ngợi chữ-nghĩa-hôm-nay của Cung Tích Biền.

Tôi muốn nói, dù phải sống với oan khiên, như vết chàm, như chiếc bóng định mệnh bất hạnh đời mình, nhưng, cuối cùng, họ Trần vẫn không hề lỗi hẹn với văn chương. Chẳng những thế, ông còn cho chữ và, nghĩa của ông, những khấp báo trầm thống!

Ông là một nhà văn miền Nam, sau biến cố 1975, xứng đáng với hai chữ Nhà-Văn-viết-hoa." (Bạch Hóa, trang 226)

.

  

blank

Hình phải: Họa sĩ Nguyễn Đình Thuần (đứng) và Cung Tích Biền. Hình trái, từ phải: Thành Tôn, Trịnh Thanh Thủy. Người áo đỏ là ca sĩ Thu Vàng.

 

.

Truyện "Anh em cùng một mẹ" của nhà văn Cung Tích Biền, in trong tuyển tập truyện ngắn "Nhạc Điệu Của Bầy Ong" ghi nhận hình ảnh bi thảm quê nhà. Nơi đó, bà mẹ có những đứa con hai bên chiến tuyến. Nhân vật tên Bá Quyền là anh, từ Bắc vào Sài Gòn sau 1975, tới thăm đứa em trai là một thương binh Việt Nam Cộng Hòa. Trích đoạn nơi đây là trang 92-94, cô gái trong trích đoạn này là con của anh thương binh VNCH:

 

"...Bá Quyền nhìn người chống nạng, hỏi:

- Bao nhiêu năm xa cách, lúc gặp nhau chú không chào tôi à?

Người chống nạng trả lời:

- Anh phải là người mở lời trước.

- Sao vậy?

- Vì sao các anh đã hiểu.

Cô gái rót hai tách nước lã. Lễ phép vòng hai tay trước ngực mời khách:

- Dạ, mời bác uống nước.

Bá Quyền nhìn cô gái xinh đẹp nói:

- Có gì phải vòng hai tay?

Người cụt chân nói:

- Đây là Miền Nam. Giáo dục của chúng tôi là vậy. Lễ phép với mọi người. Hòa nhã, giúp đỡ phụ nữ, trẻ em, người già cả. Ra đường gặp đám tang, nhường đường, đứng yên, ngả mũ chào. Xã hội này lạ lẫm với các anh nhiều lắm.

Quyền nhận ra người chống nạng, một người em ruột của mình, đang tỏ rõ thái độ. Người em không hề là kẻ đầu hàng, cần sự quỵ lụy người thân thế để nương nhờ, nên Quyền bẻ ngang câu chuyện. Anh ta hỏi về người em ruột khác, tức là anh ruột người cụt chân – kẻ đang chống nạng không chịu ngồi thân mật trò chuyện – với một giọng hách dịch:

- Vậy chú Tần đang ở đâu? Chạy sang Mỹ chắc?

- Chạy đi đâu? Chiến đấu tới phút cuối cùng ở phòng tuyến Xuân Lộc. Bây giờ đang trong trại tù của các anh.

Bá Quyền rao giảng:

-Trung tá ngụy thì phải trình diện học tập chớ. Mà tội lỗi các chú nhiều lắm. Các em trai của tôi hồi nhỏ đứa nào trong cùng một nhà với tôi đều hiền từ, sau này các chú lại đi theo giặc, trở nên tội lỗi với nhân dân. À, mà chú cũng đại úy ngụy hà? Nghe chú làm quận trưởng?

Người cụt chân không trả lời. Ông chống nạng bước ra hàng hiên, rít một hơi thuốc. Gót chân nạng không được bọc cao su. Tiếng gỗ lịch kịch trên sàn nhà. Một dội vang đều đều, âm vang của kỳ ngộ giữa hoạn nạn với máu xương một đời người. Ông nghe chỗ vết thương cũ, trận chiến đã trôi qua nhiều năm, nay tuy lành lặn nhưng vẫn nhói đau. Đau xa xăm. Một nỗi đau có-nắng-có-đau, còn-mưa-còn-nhớ." (Nhạc Điệu Của Bầy Ong, truyện Anh em cùng một mẹ, 92-94)

.

 

blank

Hình trái: CTB và Lê Giang Trần. Hình phải: CTB và Nguyễn Thanh Huy.

 

.

Trong tuyển tập Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, nơi đây xin trích đoạn câu hỏi cuối của Lý Đợi và câu trả lời của Cung Tích Biền:
 

"Lý Đợi: Trước khi đi uống rượu, qua bài phỏng vấn này, ông có muốn thỉnh cầu một điều gì không?

Cung Tích Biền: Nhân đây tôi có một thỉnh cầu (không phải kêu xin, vì nếu làm đơn xin thì 30 năm nay tôi đã làm rồi) với Nhà nước CHXHCN Việt Nam như sau:

CHỈ GIÙM TÔI NƠI CHÔN CẤT HAI NGƯỜI ANH RUỘT CỦA TÔI.

Người thứ nhất: ông Trần Ngọc Biền, vào bộ đội năm 1952, chết năm 1969, tại vùng núi Nghĩa Đàn, Nghệ An. Anh có nhiều huy chương và bằng khen thưởng, có cả chữ ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp...

Người thứ hai: ông Trần Ngọc Tấn, sĩ quan cấp tá quân lực VNCH. Có đi trình diện sau tháng Tư 1975, đi học tập và chết trong trại cải tạo. Gia đình chỉ được thông báo cái chết từ năm 1978 mà không biết nơi chôn cất.

Tôi, Trần Ngọc Thao, năm nay 2007 cũng đã ở tuổi cổ lai hy, nếu được quy kết mộ 2 ông anh ruột cũng là một thoả lòng. Nhà nước giúp tôi việc này cũng là phù hợp với Đạo lý Việt Nam." (Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, trang 99-100)

.

blank

Hình trái: Trịnh Thanh Thủy phỏng vấn Đặng Thơ Thơ. Hình phải, từ trái: Phạm Phú Minh, Bùi Vĩnh Phúc, Trịnh Y Thư.

 

 .

Có thể nói ngắn gọn rằng, trong khi viết văn, Cung Tích Biền đã cùng lúc ghi lại cả những phần đau đớn một thời trong dòng chảy lịch sử của dân tộc. Nhiều người chúng ta chỉ còn trong ký ức thời đi học về huyền thoại một mẹ trăm con như là cổ tích rất xa. Nhưng Cung Tích Biền đã nhìn thấy như hình ảnh tiên báo, không phải như một huyền thoại nghìn năm trước, nhưng đó là chuyện rất gần, rất thực. Trong truyện, đó là những người mẹ cổ tích nhìn con chia ly trong đời thường, những người mẹ có đàn con – không chỉ chứng kiến các con chia lối đi hai bờ núi/biển nhưng mẹ đã kinh hoàng, đã đau đớn khi thấy các con săn lùng bắn giết nhau. Để rồi rất nhiều người con đã chết bờ, chết bụi ở cả hai miền trong cuộc chiến và sau cuộc chiến. Nơi đây, trang giấy Cung Tích Biền đang vọng lại âm vang tiếng khóc sụt sùi của những người mẹ trăm con hai miền.

Độc giả quan tâm có thể đặt mua ở email: [email protected]

.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.