Hôm nay,  

Hội Chứng Mộng Du Trung Quốc

06/10/202110:29:00(Xem: 3046)
Joseph S
Tác giả: Joseph S. Nye, Jr.



Project-Syndicate

Tác giả: Joseph S. Nye, Jr.
Dịch giả: Đỗ Kim Thêm

Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng họ đã được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua, nếu chơi tệ.

Khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thực hiện chiến lược cạnh tranh đại cường với Trung Quốc, các nhà phân tích tìm các phép ẩn dụ trong lịch sử để giải thích tình trạng cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Nhưng trong khi nhiều người  dựa vào sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, thì một ẩn dụ lịch sử đáng lo ngại hơn là sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Năm 1914, tất cả các cường quốc đều mong rằng cuộc chiến Balkan lần thứ ba là ngắn ngủi. Thay vào đó, như nhà sử học người Anh Christopher Clark đã chỉ ra rằng, các cường quốc bị mộng du bước vào một trận đại chiến kéo dài bốn năm, phá hủy bốn đế chế và giết chết hàng triệu người.

Hồi đó, các nhà lãnh đạo không quan tâm đúng mức đến những thay đổi trong trật tự quốc tế từng được gọi là “buổi hòa nhạc của châu Âu”. Một thay đổi quan trọng là sức mạnh ngày càng tăng của chủ nghĩa dân tộc. Ở Đông Âu, chủ nghĩa Pan-Slav đã đe dọa cả đế chế Ottoman và Áo-Hung, những đế chế có nhiều dân số thuộc Nam Tư. Các tác giả người Đức đã viết về các trận chiến không thể tránh khỏi giữa người Teutonic-Slav, và sách giáo khoa đã làm bùng lên ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa. Tinh thần dân tộc được chứng minh là mối ràng buộc bền chặt hơn chủ nghĩa xã hội đối với các tầng lớp lao động ở châu Âu và là mối ràng buộc bền chặt hơn chủ nghĩa tư bản đối với các chủ ngân hàng của châu Âu.

Hơn nữa, có một sự tự mãn ngày càng tăng về hòa bình. Các cường quốc đã không tham gia vào một cuộc chiến tranh ở châu Âu trong 40 năm. Tất nhiên, đã có những cuộc khủng hoảng – ở Maroc năm 1905-06, ở Bosnia năm 1908, ở Maroc một lần nữa vào năm 1911, và các cuộc chiến tranh Balkan năm 1912-13 – nhưng tất cả đều có thể kiểm soát được. Tuy nhiên, các thỏa hiệp ngoại giao giải quyết những xung đột này đã gây ra sự thất vọng và sự ủng hộ ngày càng tăng đối với chủ nghĩa xét lại. Nhiều nhà lãnh đạo tin rằng kẻ mạnh giành được thắng lợi trong một cuộc chiến ngắn mang tính quyết định, sẽ là một sự thay đổi đáng hoan nghênh.

Nguyên nhân thứ ba dẫn đến sự mất linh hoạt trong trật tự quốc tế đầu thế kỷ XX là chính sách của Đức, vốn đầy tham vọng nhưng mơ hồ và khó hiểu. Có một sự vụng về khủng khiếp về việc theo đuổi quyền lực của Wilhelm II, Hoàng đế Đức. Có thể thấy điều gì đó tương tự với “Giấc mơ Trung Hoa” của Chủ tịch Tập Cận Bình, việc ông từ bỏ phương cách kiên nhẫn của Đặng Tiểu Bình và chính sách ngoại giao “chiến binh sói” thái quá mang tính dân tộc của Trung Quốc.

Ngày nay, giới hoạch định chính sách phải cảnh giác trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc, cũng như chủ nghĩa sô vanh dân túy ở Hoa Kỳ. Kết hợp với chính sách đối ngoại hiếu chiến của Trung Quốc, lịch sử của các bế tắc và những thỏa hiệp không thỏa đáng đối với Đài Loan, triển vọng của tình trạng leo thang khinh suất giữa hai cường quốc vẫn tồn tại. Như Clark đã đề cập, một khi những thảm họa như Thế chiến thứ nhất xảy ra, “chúng áp đặt cho chúng ta (hoặc dường như làm như vậy) một cảm giác về sự cần thiết chúng”. Nhưng năm 1914, Clark kết luận, “tương lai vẫn còn rộng mở – chỉ đúng như vậy. Đối với tất cả những khó khăn của các mặt trận ở cả hai phe có vũ trang của châu Âu, đã có những dấu hiệu cho thấy thời điểm cho một cuộc đối đầu trọng đại có thể sắp qua“.

Một chiến lược thành công phải ngăn ngừa hội chứng mộng du. Năm 1914, Áo chán ngấy chủ nghĩa dân tộc mới nổi của Serbia. Việc một tên khủng bố người Serbia ám sát một hoàng tử người Áo là một cái cớ hoàn hảo cho một tối hậu thư. Trước khi đi nghỉ hè, hoàng đế Đức đã quyết định ngăn chặn một nước Nga đang trỗi dậy và ủng hộ đồng minh Áo của mình bằng cách cấp cho Áo một công hàm ngoại giao ủng hộ vô điều kiện. Khi ngài trở về và biết được Áo đã thực hiện như thế nào, ngài đã cố gắng thu hồi bản văn, nhưng đã quá muộn.

Mỹ hy vọng sẽ ngăn chặn việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc và duy trì sự lấp lửng về mặt pháp lý đối với Đài Loan, nơi mà Trung Quốc coi là một tỉnh nổi loạn. Trong nhiều năm, chính sách của Hoa Kỳ đã được soạn thảo để ngăn chặn việc Đài Loan tuyên bố độc lập về mặt pháp lý cũng như việc Trung Quốc sử dụng vũ lực đối với hòn đảo này. Ngày nay, một số nhà phân tích cảnh báo rằng, hai chính sách răn đe song hành này đã lỗi thời, vì sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc có thể cám dỗ các nhà lãnh đạo của họ hành động.

Những người khác tin rằng, một sự bảo đảm hoàn toàn với Đài Loan hoặc ám chỉ rằng, Mỹ đang đi theo hướng đó sẽ kích động cho Trung Quốc hành động. Nhưng ngay cả khi Trung Quốc né tránh một cuộc xâm lược quy mô toàn diện và chỉ cố gắng ép buộc Đài Loan bằng cách phong tỏa hoặc bằng cách chiếm một trong những hòn đảo ngoài khơi của họ, nguy cơ chiến tranh vẫn sẽ bùng nổ nếu có một sự cố liên quan đến các tàu hoặc máy bay dẫn đến thiệt hại về nhân mạng. Nếu Mỹ phản ứng bằng cách đóng băng tài sản hoặc viện dẫn Đạo luật giao dịch với kẻ thù, cuộc chiến ẩn dụ của hai nước có thể nhanh chóng trở thành hiện thực. Bài học của năm 1914 là cảnh giác với chứng mộng du, nhưng chúng không đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề Đài Loan.

Một chiến lược thành công của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc bắt đầu từ trong nước. Nó đòi hỏi phải duy trì các thể chế dân chủ thu hút thay vì ép buộc các đồng minh, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển để duy trì lợi thế công nghệ của Mỹ và duy trì sự cởi mở của Mỹ với thế giới. Đối với bên ngoài, Mỹ nên tái cấu trúc các lực lượng quân sự kế thừa của mình để thích ứng với sự thay đổi công nghệ; củng cố các cấu trúc liên minh, bao gồm NATO và các thỏa thuận với Nhật Bản, Australia và Hàn Quốc; tăng cường mối quan hệ với Ấn Độ; củng cố và bổ sung các thể chế quốc tế mà Mỹ đã giúp tạo ra sau Thế chiến thứ hai để thiết lập các tiêu chuẩn và quản lý sự phụ thuộc lẫn nhau; và hợp tác với Trung Quốc, nếu có thể được, về các vấn đề xuyên quốc gia. Cho đến nay, chính quyền Biden đang theo một chiến lược như vậy, nhưng năm 1914 là một lời nhắc nhở thường xuyên về sự thận trọng.

Trong tương lai gần, với các chính sách quyết đoán của Tập, Hoa Kỳ có thể sẽ phải dành nhiều thời gian hơn cho sự quân bình trong cạnh tranh. Tuy nhiên, một chiến lược như vậy có thể thành công, nếu Mỹ tránh được tư tưởng ma quỷ hóa và những suy diễn tương tự sai lầm như trong  thời Chiến tranh Lạnh, đồng thời duy trì các liên minh của mình. Năm 1946, George Kennan đã tiên đoán chính xác về một cuộc đối đầu kéo dài hàng thập niên với Liên Xô. Mỹ không thể kiềm chế Trung Quốc, nhưng có thể hạn chế lựa chọn của Trung Quốc bằng cách định hình môi trường mà nước này trỗi dậy.

Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng  họ đã nhận được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua nếu chơi tệ.

***


Joseph S. Nye, Jr. là Giáo sư Đại học Harvard và tác giả sách: 
Do Morals Matter? Presidents and Foreign Policy from FDR to Trump.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.