Hôm nay,  

Nguyên Đán Quê Người

2/11/202111:13:00(View: 3328)
Pic 1 Chua vn Los Angeles
Chùa Việt Nam ở Los Angeles
Pic 2 Báo Xuân Bính Thìn năm 1976
Báo Xuân Bính Thìn năm 1976
Pic 3 Chợ Tết tại Mc Garvin 1995
Quảng cáo Chợ Tết tại Trung Học Mc Garvin, Garden Grove
Pic 4 Diễn Hành tet 2001
Diễn hành Tết 2001 tại Little SaiGon.
Pic 5 Doan_TNVN_DienHanh_2004_VoThuat_01
Đoàn Thanh Niên Việt Nam diễn hành năm 2004 tại Little SaiGon.
Pic 6 Chợ tet 2007
Chợ Tết Sinh Viên năm 2007
Pic 7 Diễn hành Tết Phuoc_Loc_Tho_Tet_2008
Diễn hành Tết 2008 trước Phước Lộc Thọ
Pic 8 Tet_Festival_Little_Saigon 2009
Chợ Tết Sinh Viên 2009 tại Little Saigon
PIc 9-tet-fest 2009 in south elmonte
Chợ Tết 2009 tại South El Monte, Los Angeles
Pic 10 cho-tet-sinh-vien 2020
Chợ Tết Sinh Viên năm 2020



Thấm thoát đã 45 mùa xuân lướt qua đời mình, từ ngày tôi bắt đầu chập chững những bước tị nạn trên xứ người. Ký ức mùa xuân của tôi như dòng sông chảy ngược về nguồn, lúc vun vút, khi chậm rãi luân lưu giữa chập chùng biển hồ dĩ vãng. Theo chân gia đình ra khỏi trại Pendleton thuộc Quận San Diego, tiểu bang California, tôi về định cư ở thành phố của Những Thiên Thần (Los Angeles)vào những ngày tháng cuối năm 1975. Mùa xuân Bính Thìn 1976 đầu tiên trên miền đất hứa Hoa Kỳ, bố tôi dẫn gia đình đến thăm ngôi chùa Việt Nam toạ lạc ở đường Berendo của thành phố này. Mẹ tôi là người hái những chiếc lá lộc non đầu năm để cầu nguyện cho gia đình và cuộc sống tương lai không biết sẽ ra sao trên vùng đất mới. Ngày ấy tôi chưa đủ trưởng thành để xao xác với niềm nhớ quê hay trằn trọc với những hoài vọng luyến thương canh cánh như bố mẹ tôi. Tôi chỉ biết dõi theo những khuôn mặt ưu tư trĩu nặng của khách dâng hương đang thành kính khấn vái trên chiếc chiếu cói trải trước Phật Đường. Từ đó Chùa Việt Nam biến thành nơi người Việt đến viếng rất đông vào các ngày Lễ, Tết để hái lộc, dâng hương và tìm lại các phong tục truyền thống trong những năm đầu tị nạn ở Cali. 

Vị sáng tổ đưa Phật giáo Việt Nam vào Hoa Kỳ và thành lập ngôi chùa Việt Nam đầu tiên tại đây năm 1975, là Cố Hòa thượng Thích Thiên Ân. Đặc biệt, mặt sau cổng tam quan chùa có khắc hai câu thơ nổi tiếng của cố Hòa thượng Thích Mãn Giác: "Mái chùa che chở hồn dân tộc - Nếp sống muôn đời của tổ tông." Ngoài hai câu thơ trên Thầy Mãn Giác còn có đạo hiệu là Huyền Không. Thầy đã mất và để lại những tập thơ, sách, trước tác, phiên dịch có giá trị. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác có nhắc đến ngôi chùa và thầy Huyền Không cùng 4 câu thơ có nhan đề "Trẻ Thơ" của thầy như thế này,

Chùa xưa mái ngói cũ

Trèo lên nắm cây sào

Đêm khuya rồi không ngủ

Kéo rụng bao nhiêu sao?


Chỉ 4 câu thơ mà Nguyễn Mộng Giác đã tưởng tượng ra được nhà thơ Huyền Không ngày còn bé là 1 chú tiểu rắn mắt thơ mộng, đêm khuya thao thức không ngủ, trèo lên mái ngói nhà chùa, dùng sào để kéo rụng bao nhiêu là sao. 


Những năm đầu tị nạn phải gọi là những năm hoài hương vì suốt năm ai cũng phải mưu sinh nên nỗi nhớ quê bị quên lãng, nhưng cứ Tết đến, căn bệnh luyến quê lại bùng lên như lửa dữ, không sao dập tắt được. Tạp chí, sách, báo, đài truyền thanh hay thơ văn toàn là những bài viết hay nhớ về Tết quê nhà những năm trước 75 là chính yếu. Nhất là những nơi có khí hậu lạnh, trời u ám và mưa tuyết giăng giăng, người Việt càng nhớ cảnh ấm áp, vui tươi và nhộn nhịp của Tết xuân. Rồi người Việt bắt đầu tổ chức Tết ở mỗi địa phương của mình cho tiện việc di chuyển. Ngày đó chúng ta chưa có các cộng đồng Việt lớn, chợ Tết thường được tổ chức ở các khuôn viên đại học cộng đồng là nơi có nhiều người Việt ngụ cư hoặc các địa điểm tôn giáo nơi có các tín đồ hay phật tử lui tới thường xuyên. Chiếc áo dài xuất hiện ở các sân chùa, nhà thờ và chợ Tết đã làm sống lại hình ảnh quê hương trong lòng người Việt tha hương. Thế là năm 1977, các sinh viên Đại Học Long Beach đã tổ chức cuộc thi Hoa Hậu Áo Dài đầu tiên. Từ đó, nụ cười của các cô hoa hậu xinh tươi, rực rỡ xuất hiện trong các ngày đầu xuân ở các khu chợ Tết là hình ảnh không thể quên trong ký ức của khách du xuân trên chân trời mới. 

Một số người Việt gốc Hoa qua Mỹ tị nạn sau năm 1979 đã dần dần về ngụ cư gần hay ngay trong phố Tầu China Town của Los Angeles. Sau họ dọn về khu Alhambra, Monterey Park, Rosemead hay Elmonte, kéo theo một số người Việt bỏ Los Angeles về những vùng này cùng chung sống. Vì lý do thuận tiện, số người này gia nhập cộng đồng người Hoa ăn Tết và tham dự các cuộc diễn hành Tết được tổ chức tại China Town, Los Angeles. 

 

Riêng ở Quận Cam, từ năm 1977 đến năm 1979, Người Việt đã mừng Tết ở các cơ sở thương mại trên đường Bolsa (Westminster), như nhà sách Tú Quỳnh, nhà hàng Thành Mỹ, văn phòng bảo hiểm Luật Sư Phước, văn phòng khai thuế Lưu Hồng Sơn, đoàn quán Hướng Đạo Bạch Đằng, Danh Pharmacy, chợ Hòa Bình, chợ Ái Hoa hay tòa soạn báo Saigon của Du Miên ..v..v... Đầu năm 1981, tờ Orange County Register đã dành nhiều trang đăng các sinh hoạt mừng Tết Nguyên Đán của người Việt do nữ ký giả Rosa Kwong viết trong số báo ra ngày 1 tháng 2, 1981. Báo này đăng thêm tấm bản đồ và dịch chữ Phố Saigon của ký giả Du Miên thành chữ “Little bit of Saigon.” Một số đài truyền hình Hoa Kỳ cũng tường thuật những sinh hoạt vui nhộn như múa Lân, đốt pháo của người Việt mừng Xuân, và danh xưng “Little Saigon” bắt đầu xuất hiện từ đây. Sau này vì người Việt kéo về Quận Cam ngày càng đông, năm 1988, khu vực thương mại 72 được gọi là "Little Saigon" được chính thức công nhận. Năm 1987, thương xá Phước Lộc Thọ khai trương và nay trở thành địa điểm mốc của khu Little Saigon. 

Trong những thập niên 1990, 2000, các trường trung học quanh đấy như Mc Garvin(vào năm 1995) hay Bolsa Grande High School tại Garden Grove là nơi tổ chức Hội Tết Việt Nam hàng năm do Tổng hội sinh viên Việt Nam Nam Cali UVSA tổ chức và thu hút hàng trăm ngàn người tham dự. Song song với chợ Tết có những cuộc diễn hành với nhiều hội đoàn, đoàn thể, nhiều xe hoa được diễn ra trên đại lộ Bolsa, được đài truyền hình, Radio, và báo chí truyền thông tường thuật. Trong những năm gần đây Chợ Tết và Quận Cam được tổ chức một vài nơi chứ không phải một nơi nữa. Điều thú vị là nhiều người Việt từ khắp nơi trên thế giới và cả người trong nước đổ về Little Saigon để đón xuân vì không khí Tết ở đây ấm cúng, nhộn nhịp và tưng bừng. Đặc biệt là các khu vực tổ chức Tết xin được phép cho đốt pháo vang lừng trong những ngày Tết. Ai đến đây cũng thấy rõ ràng không khí Tết bừng bừng ở chợ Hoa, hàng quán, phố phường, chợ đêm, chùa chiền, nhà thờ, các cơ sở thương mại..v..v... Chỉ cần đêm Giao Thừa vào chùa lễ Phật, hái lộc, xem văn nghệ và nghe đốt pháo tưng bừng lòng người tha hương đã ấm lại muôn phần. Sáng mồng một xếp hàng dọc theo hai dãy phố đường Bolsa từ Bushard tới Magnolia mà Phước Lộc Thọ là mốc chính, người ta có thể xem một cuộc diễn hành đầu năm rất ngoạn mục. Sau đó cả gia đình kéo nhau đi chợ Tết ở Costa Mesa, Trung Học Bolsa Grande, hay Mile Square Park để tận hưởng những giờ phút sôi động quên đi một năm kéo cày mệt nhọc. Mồng hai là ngày các cửa tiệm thay phiên nhau đốt những tràng pháo dài thậm thượt để nguyện cầu cho sự may mắn làm ăn phát đạt, và bình an. Các ông bà, cha mẹ cùng nhau đi chúc Tết bạn bè hay tổ chức họp mặt gia đình hoặc hội đoàn. Dịp Tết cũng là dịp người Việt hải ngoại được mặc và khoe áo dài đẹp. Những năm sau này áo dài may sẵn cho phụ nữ và đặc biệt là phái nam nhìn vừa sang vừa hợp thời trang. Các mẫu mã, hoạ tiết, thiết kế, đủ màu sắc được bán với giá rẻ vì sản xuất hàng loạt khiến ai nhìn vào cũng thích thú. Vào chùa, đến nhà thờ, ra phố, đi chợ Xuân ở Cali, các tà áo dài phất phới như những cánh bướm muôn màu, đẹp vô cùng. Không khí đó, tâm thức vui tươi hạnh phúc ấy, người Việt nào không thấy ấm lòng mà chẳng thốt lên "Đón xuân ở Little Saigon vui quá". Sự an ủi lớn nhất của cộng đồng người Việt tha hương là các em trẻ nhiệt tình, thích thú cũng như tích cực tham gia đóng góp vào các sinh hoạt Diễn Hành hay Chợ Tết Sinh Viên hằng năm. Năm nào cũng đông kinh khủng. Nhìn các em tíu tít chụp hình, xếp hàng dài để ăn uống các món ăn Việt Nam, chơi các trò chơi sống động ở Hội Chợ, ai mà không vui, không hạnh phúc tràn trề. Mừng cho cộng đồng người Việt chúng ta có những nơi đón Tết tha hương thật lý tưởng. 


Trịnh Thanh Thủy



Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.