Hôm nay,  

Thầy Vẫn Thiền Mọi Đêm

28/02/202016:19:00(Xem: 3491)

Tiếng chuông bong bong ngân dài theo con nước chảy của dòng Hà Thanh, laị vang lên xuyên qua tán lá xanh um của những tàng nhãn, xoài, vú sữa cổ thụ. Chùa Châu Liên nằm nép mình dưới những tàng cây quanh vườn. Mỗi chiều tiếng chuông laị lay động không gian trước khi mặt trời dần xuống thấp. Dân các tổng An, Phước, Lộc, Thọ… cũng như muôn loài chim đã quen với tiếng chuông, mỗi khi chùa chuông vang lên thì người thu xếp việc đồng áng, chim bay về quanh vườn ríu rít trên cây. 

 Chẳng biết chùa dựng lên tự bao giờ, tuy nhỏ nhưng dáng vẻ cổ kính rất đẹp, hài hoà với cảnh vật ở đây. Có những mùa lụt lớn dâng lên, những cơn bão dữ thổi qua nhưng cũng chẳng làm hư hao gì mấy. Hồi còn chiến tranh, năm ấy hai bên đánh nhau dữ dội, máy bay Mỹ thả bom xuống căn cứ, những quả bom to và dài như trái bí đao, đặc biệt có một quả to bằng cái lu nước. Những quả bom ấy làm sập cầu Quán Cát, mộ tổ họ Nguyễn cách xa ba cây số, to như ngọn đồi, xây bằng đá ong, ô dước bị chấn động nứt toác ra và sụp đổ một phần, vậy mà chùa Châu Liên gần bên chẳng hề hấn gì. Dân quanh vùng xì xào bàn tán nhiều lắm, ai cũng cho là chùa linh, có long thần, thổ địa hộ vệ nên không bị sập.

 Chùa nằm trên đồi Gò Đu, trước mặt là cánh đồng lúa xanh bát ngát, những cánh cò trắng chao lượn đẹp làm sao. Sau khi chiến tranh kết thúc, người laị phát động đập phá chùa chiền, dinh, miễu, đình…Miễu kê, đình Ngọc Thạnh, đình Luật Lễ, Đình Vân Hội… đều tan tành, đồ tế khí bị lấy đi sạch trơn. Ấy vậy mà chùa Châu Liên một lần nữa thoát nạn, không một mảy may bị haị, duy có lá cờ Phật giáo thường treo giữa sân chùa là phải hạ xuống mà thôi. Nhiều năm về sau laị có một phong trào khác, cơn lốc chùa to Phật lớn càn quét từ thánh thị tới thôn quê, từ miền xuôi lên miền ngược…những ngôi chùa cổ dù còn tốt vẫn bị triệt hạ để xây mới, những pho tượng cổ thì quét sơn loè loẹt. Nhiều người lên chùa xúi thầy xây laị chùa cho hợp với thời đaị mới. Một ngaỳ kia sau khi khoá lễ xong, đaị gia Thạch ghé chùa:

 - Thưa thầy, con xin cúng dường mười tỷ để thầy xây laị ngôi chùa cho to lớn, khang trang hơn. 

 Những Phật tử ở đấy nghe thế thì mừng ra mặt, bà Bảy Hưng cười:

 - Qúy hoá quá, đaị gia Thạch có tấm lòng Bồ tát. 

 Ông Hai Quá cũng khen

 - Đaị gia Thạch có tâm tu, còn trẻ mà hiến mười tỷ để xây chùa là hiếm lắm! 

 Bà con Phật tử quanh vùng ai cũng xuýt xoa ca ngơị đaị gia Thạch không tiếc lời. Thầy trầm ngâm một lát rồi nhỏ nhẹ:

 - Thầy cảm niệm tấm lòng của anh nhưng thầy không dám nhận số tiền này, mong anh thông cảm! 

 Đaị gia Thạch hỏi:

 - Tại sao?

 Thầy bảo:

 - Bây giờ thầy chưa thể nói được, nhưng từ từ rồi anh sẽ biết thôi. 

 Đaị gia Thạch ra về với vẻ bất mãn, bà con thì cũng tiếng bấc tiếng chì, nhiều người tiếc nuối món tiền lớn:

 - Ông thầy già cả nên an phận thủ thường, không chịu khuếch trương phát triển như các chùa khác. 

 Thượng tọa Qúy Tài từ chùa Thọ Lộc đến chơi hỏi:

 - Nghe nói có đaị gia hiến mười tỷ xây chùa mà huynh không nhận? 

 Thầy khẳng định:

 - Ừ, ông ấy hiến tiền nhưng tôi không nhận.

  - Tại sao?

 - Mình xuất gia tu học là để ngộ đạo và giải thoát, chùa to Phật lớn chỉ là cái mã bề ngoài, không dính dáng gì đến con đường giải thoát cả! mặc khác nó còn là sự dính mắc đấy, vả laị chùa này còn rất tốt, tuy chưa phải là danh lam cổ tự nhưng cũng là chứng tích trăm năm của vùng đất này. Tôi không nỡ đập đi để xây mới, 

 Thượng tọa Qúy Tài laị nói:

 - Thời thế hôm nay khác, phải chùa to Phật lớn mới độ chúng được.

 - Không, thượng tọa nhầm rồi! chùa to Phật lớn là để du lịch, người ta đến chụp hình đăng mạng xã hội, để tô vẽ mặt mày đấy thôi! Có mấy ai đến để mà ngồi xuống tịnh tâm đâu? càng to, càng hào nhoáng thì càng lăng xăng rộn ràng. Ngày xưa Phật bỏ cả cung vàng điện ngọc, hà cớ gì giờ laị cố xây cho đồ sộ, sơn phết vàng son rồi ngụy ngôn bảo là vì Phật pháp.

 Thượng toạ vẫn cố biện giải:

 - Người ta hiến mười tỷ, huynh không nhận, hoá ra làm thối thất tâm bồ đề của họ. 

 - Này huynh đệ, hãy nhìn nhận cho rõ ràng một tí! nếu là tịnh tài thì tôi đâu nỡ từ chối. Thượng tọa cũng biết đấy, đaị gia Thạch giàu  kinh khủng, là tay có máu mặt của địa phương, kết thân toàn tai to mặt lớn. Y khai thác đá xuất khẩu, những ngọn núi quanh vùng như: Hòn Vồ, Hòn Thơm, Hòn Bé, Hòn Chài… bị phá tan hoang, thảm thực vật bị hủy diệt, thú hoang tuyệt chủng, những sườn núi lở loét, mỗi khi mưa xuống nước cuốn đất đỏ chảy thành dòng như dòng máu từ thân núi chảy ra, những dòng nước đấy đất, sỏi, đá lấp cạn ruộng vườn, đường xá. Những xe tải hạng nặng chở đá cày nát hết đường xá hương thôn, môi trường ô nhiễm kinh khủng… dân kêu trời như bộng, khiếu kiện không ăn thua gì,  quan quyền ngậm miệng ăn tiền nên không ai dám đụng đến y. Những đồng tiền từ máu của núi rừng ấy, từ nỗi thống khổ của dân lành… Làm sao ta có thể nhận những đồng tiền ấy để xây chùa? vả laị tôi cũng quán xét mà biết, việc này không phải phát xuất từ tâm thành của anh ta, chẳng qua là lòng anh ta có nỗi bất an, lo sợ qủy thần trách phạt nên mới làm vậy hòng kiếm phước hoặc sự che chở. 

 Thượng tọa Qúy Tài vẫn không chịu, vớt vát thêm:

 - Dù sao anh ta cũng làm một việc tốt, xây chùa to sẽ ảnh hưởng tích cực đến xã hội. 

  Thượng tọa cáo lui nhưng lòng không vui, về đến chùa còn nói với các huynh đệ khác:

 - Tôi quyên giáo muốn gãy lưỡi mà chỉ được một tỷ bạc, thầy Châu Liên khơi khơi có người hiến mười tỷ mà không chịu nhận. Ông ấy già nua, gàn dở và không thức thời. 

 Các vị tăng bàn tán kẻ bảo uổng, người nói bỏ lỡ cơ hội quý… Riêng có một ông tăng còn rất trẻ, không nói một lời nào, vẻ mặt thoáng một nét cười nhẹ mà bỏ đi. Chuyện đến tai giáo hội, các vị chức sắc cử thầy Đắc Danh về thuyết phục:

 - Thầy nên vì giáo hội mà nhận khoản tiền ấy để xây chùa, xây chùa to có lợi cho bá tánh mà giáo hội ta cũng thơm lây, Phật giáo nước nhà vẻ vang, xã hội an định…

 Thầy Châu Liên cười:

 - Chùa Châu Liên này còn vững chãi lắm, hà cớ gì phải xây laị? 

 - Xây chùa to là để tạo khí thế cho quần chúng tu học, tăng ni phấn khởi, xây chùa dựng tháp để tiền đồ Phật giáo vững mạnh và phát triển.

 - Thầy nhầm rồi! tiền đồ Phật giáo hưng thịnh hay không, không phải ở nơi chùa to Phật lớn mà là do có tinh tấn tu học, giới luật tinh nghiêm hay không mà thôi! Thầy có biết không? đời Trần, Phật giáo nước ta cực kỳ hưng thịnh, tăng lữ gắn kết chặt chẽ với qúy tộc triều đình, cúng dường tiền bạc đất đai quá nhiều, tiêu biểu như chùa Quỳnh lâm, có đến ngàn mẫu ruộng. Khi triều Trần sụp đổ, Phật giáo nước mình cũng suy vi suốt mấy trăm năm sau. Đấy là thời mà có nhiều bậc long tượng trụ thế, nhiều tòng lâm thạch trụ xuất sắc, nhiều hành giả kiệt xuất mà còn thế huống chi là đời bây giờ. 

 Thầy Đắc Danh vẫn không chịu:

 - Phật giáo các nước có Angko vat, Angko Thom, Borobudu, Thiếu Lâm Tự… thì ta cũng phải có cái gì tương tự để mà hãnh diện chứ. 

 Thầy Châu Liên lắc đầu:

 - Người học Phật tối kỵ việc so sánh, đua đòi, dính mắc danh sắc. Quốc độ mỗi nơi mỗi khác, vả laị đời vô thường, các pháp hữu vi sanh diệt liên miên, thành trụ hoại không không có hạn kỳ. Thầy là người xuất gia, lẽ nào quên hay sao? 

 Không thuyết phục được thầy Châu Liên, thầy Đắc Danh quày quả bỏ về, chuyện tưởng thế thì thôi, nào ngờ chức sắc từ quận xuống:

 - Tại sao có người hiến tiền xây chùa mà thầy từ chối? xây chùa to cho đẹp địa phương ta, thu hút khách du lịch, chùa cũng có lợi mà địa phương cũng có thêm thu nhập. Chúng tôi sẽ hỗ trợ thầy! 

 Thầy từ tốn:

 - Các anh thấy đấy, chùa Châu Liên gắn bó với địa phương cũng non trăm năm rồi, đem laị bình an cho dân các tổng trong bao nhiêu năm, dù thiên tai, dù chiến tranh…Chùa cũng là dấu ấn mở đất, lập cõi của cha ông, là nơi người sống nương tựa tinh thần, người chết gởi nắm tro tàn để nghe kinh, hưởng hương hoa. Người xuất gia hay taị gia cũng đều biết câu “ An cư lập nghiệp”. Chùa Châu Liên vốn đang an, đang tốt, khi không đập bỏ để xây laị thì tổn haị đến tài lực dân, động đến long thần thổ địa và bao nhiêu chúng sanh khác. 

 Người của quận vẫn khăng khăng:

 - Các địa phương khác đều có chùa to phật lớn cả, lẽ nào địa phương ta chịu thua? 

 Thầy Châu Liên khuyên:

 - Đừng làm con gà mà tức nhau tiếng gáy, quan trọng là đất thạnh dân an, xã hội thái hoà! 

 O ép năm lần bảy lượt không xong, họ bỏ về với vẻ mặt cáu kỉnh dọa:

 - Để xem ông ấy cúng cựa được bao lâu! 

 Tối hôm ấy thầy ngồi thiền, bất chợt nghe thoảng mùi tanh, hé mắt nhìn thì thấy một cặp Ma Hầu La Già dập đầu qùy sau lưng:

 - Tạ ơn hoà thượng, nhờ bản lãnh của thầy mà chùa này không bị triệt hạ. Chúng con nhờ thế mà không bị mất nơi nương tựa. Chúng con ở đây đã gần trăm năm, ngày đêm nghe kinh kệ, hưởng khói nhang… Ơn này khắc sâu tim óc không bao giờ quên. 

 Thầy vẫn ngồi yên bất động, nghe rõ mồm một nhưng giữ vững chánh niệm, lát sau thì có một người phục sức như võ tướng, tay cầm kim cang xử bước vào và sụp lạy:

 - Tạ ơn thầy, nhờ thầy mà chùa Châu Liên không bị phá bỏ, các chùa khác đều bị đập đi xây mới. Hộ pháp chúng con dù hết lòng yêu mến những ngôi cổ tự nhưng không làm gì được hơn trong thời pháp nhược ma cường này! Châu Liên có thể nói là một hiện tượng lạ, vẫn tồn tại vững chãi, dù trải qua lũ lụt, giông tố, chiến tranh và cơn lốc đập cũ xây mới, đất lành cũng nhờ người đức lớn. Con nguyện đời đời hộ pháp, hộ tăng, hộ tất cả những ai có lòng với đạo pháp. 

 Thầy vẫn ngồi yên lặng, trông vững chải như sơn, mùi hương trầm phảng phất, ngọn đèn bạch lạp leo lét lung linh. Tượng Thế Tôn trên toà như thoáng mỉm cười, nụ cười nhẹ như gió thoảng mây bay, nụ cười không phải ai cũng nhìn thấy, nụ cười như hư không mà laị mênh mông và hùng tráng. Trời, người trông thấy đều sanh lòng cung kính năm vóc gieo sát đất. Khung cảnh điện đường như đang ở cung trời cổ độ nào chứ chẳng phải của quốc độ này. Thổ địa bước vào lạy Phật xong qùy thưa:

 - Bạch thầy, con là thổ địa coi sóc cuộc đất này. Chùa Châu Liên ở đây cũng non trăm năm, thế đất tốt, cư dân hiền hoà, từ khi thầy về trụ thì càng ngày càng hưng vượng hơn. Đạo hạnh thầy cảm hoá được nhân gian và bao loại phi nhơn. Những loại phi nhơn về đây nương tựa tam bảo, nghe kinh, thính pháp ngày càng nhiều. Bọn họ đều phát nguyện hộ pháp, hộ tự, hộ nhân… Cũng có những kẻ có tâm sân hận, ích kỷ, quấy phá nhiễu chúng nhưng con đều khắc chế nhiếp phục. Chúng con tạ ơn Phật, ơn thầy! 

 Bên ngoài Phật điện lúc ấy có vô số hoa trắng từ trời rơi xuống như mưa. Các vị thiên xuất hiện đầy sân chùa đồng thanh xưng tán cúng dường

 Thế Tôn, Thế Tôn

 Đấng đạo sư của muôn đời

 Ánh sáng trí huệ soi sáng ba ngàn thế giới

 Lòng từ ban rải khắp mười phương

 Chúng con trời, người

 Quy y đảnh lễ

 Hôm nay rải hoa cúng dường

 Bậc khí phách kim cương 

 Thời mạt pháp

 Thầy vững chải giữ gìn chánh pháp 

 Hôm sau, phiên chính chợ Bà Bâu, dân các tổng cứ đồn đaị chuyện chùa Châu Liên không ngớt. Sau phiên chợ, có người lên chùa hỏi thầy:

 - Đêm qua chùa có lễ gì mà dân các tổng không ai hay biết? người các tổng thấy cả ngôi chùa và khu vườn sáng lung linh như hôị hoa đăng, sáng nay ngoài chợ người ta bàn tán râm ran.

 Thầy cười:

 - Có lễ gì đâu, thầy vẫn thiền như mọi đêm thôi! 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 1/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.