Hôm nay,  

Một Thành Tôn khác

05/09/201910:21:00(Xem: 3606)

Thanh Ton
Một lần, ngồi ở quán cà phê, có nhà văn Cung Tích Biền và họa sĩ Trịnh Cung, tôi nhớ, có một người nói:

- Ở đâu có Thành Tôn là có Trần Yên Hòa...

Câu nói xác nhận là tôi và nhà thơ Thành Tôn thân thiết đến độ, đi cà phê hoặc "lai rai rai ba sợi" ở đâu, cũng có nhau.

Câu nói này cũng chỉ đúng một nửa, vì, từ mấy năm nay, tôi sống khép mình, chỉ muốn ở nhà viết lách chút đỉnh, đọc và post bài trên Bạn Văn Nghệ, rồi đi tập thể dục ở Gym. Ít đi la cà cà phê với ai, trừ một số bạn văn thân, rất thân. Trong lúc anh Thành Tôn thì bạn bè nhiều, nhất là với các bạn học, bạn văn, xa, gần, trước, sau...Anh đều tiếp đãi cà phê, rất ngọt.

Nhưng, nói gì thì nói, tôi với anh Thành Tôn đã kết thân từ hơn hai mươi năm qua, tôi coi Thành Tôn như người anh, vì tôi biết những tính tốt của anh đối với bạn bè. Và anh cũng coi tôi như một người em, vừa đồng môn, vì học cùng trường thời trung học, dù khác lớp, vừa cùng quê Quảng Nam, vừa là bạn văn nghệ, nên nhiều khi anh em tâm sự thật lòng. 

Nên, nhân đây, tôi cũng xin ghi lại một chút về tình thân của chúng tôi. 

Tôi "biết" anh Thành Tôn trước khi "quen", từ ngày anh học ở Tam Kỳ, làm việc ở Tam Kỳ, làm rể ở Tam Kỳ, làm thơ ở Tam Kỳ. Nhưng chỉ biết thôi. Thuở đó, anh đã có những "bài thơ" lẫm liệt, đã đăng ở các tạp chí văn học danh giá Sài Gòn, lại xuất bản tập thơ Thắp Tình nữa, nên tên tuổi Thành Tôn trong giới văn học, hay đọc sách, ai cũng biết. 

Cho đến mãi những tháng năm qua Mỹ, tôi mới gặp Thành Tôn bằng xương bằng thịt. 

Anh trong nhóm 5 anh em "hội cà phê" chúng tôi: Trần Văn Nam, Đạm Thạch, Phạm Phú Minh, Thành Tôn và Trần Yên Hòa...trong suốt nhiều năm...Đến khi Đạm Thạch di chuyển sang sống với con ở Arizona, Trần Văn Nam mất, Phạm Phú Minh hơi mệt, ít đi cà phê...nên chỉ còn tôi và Thành Tôn bám trụ, cầm cự hai tuần một lần, đều chi.


*


Bây giờ tôi viết về một Thành Tôn "khác", chứ không viết về Thanh Tôn Thơ, hoặc Thành Tôn Sách nữa, vì (hình như) đã có 5, 6, nhà văn, nhà thơ thân hữu viết về anh rồi. Một Thành Tôn "khác" của tôi ở đây là về một Thành Tôn đời thường: Thành Tôn với bạn bè, gia đình...và tình yêu.

Tôi chỉ nhìn anh ở khía cạnh đó...


Với bạn văn:

Với Thành Tôn, ai cầm bút viết được, ở mọi lãnh vực, anh đều trân quý...Đã là người viết, tác phẩm có giá trị hay không, nếu có Thư Mời anh tham dự Ra Mắt Sách, anh đều đến tham dự, và mua sách ủng hộ. Anh nói, mua để giữ làm tài liệu, nhưng thật ra thì anh mua ủng hộ thôi, để tác giả thu lại tiền in ấn.

Còn những quyển sách giá trị, bằng bất cứ giá nào, dù ở VN hay ở Pháp, Úc, anh đều tìm mua cho bằng được, nếu khó quá, anh biết ai có sách, anh mượn về copy toàn quyển sách để cất giữ, còn bản chính trả lại cho chủ nhân.

Đối với các bạn văn lớn tuổi hơn, hiện sống ở Little Sài Gòn, như nhà văn Nguyễn Đình Toàn, Viên Linh (trước đây), họa sĩ Hồ Thành Đức, Khánh Trường...anh thường đến thăm và sẳn sàng giúp đỡ, như chở đi bác sĩ, hướng dẫn về việc xin phúc lợi An Sinh Xã Hội, Ngân Hàng...hay đi cà phê. Đã nhờ anh giúp đỡ là anh không từ chối...Dù bận bịu anh cũng dành thì giờ để đến giúp với lòng vui vẻ...


Còn các bạn văn ở xa, đồng thời với anh như Song Thao, Trần Doãn Nho, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Hoàng Lộc... thì anh điện thoại thăm hỏi thường xuyên, có thể hàng tuần...Các bạn văn ở xa, nhiều khi xa Little SG, nam Cali, muốn biết sinh hoạt văn học nghệ thuật ở thủ đô nhỏ này ra sao, anh đều vui vẻ kể cho bạn nghe, hay nghe bạn kể, có lúc cuộc trò chuyện, tâm sự lên đến cả ba chục phút hay cả tiếng đồng hồ.

Cho nên các bạn văn ở xa về thủ đô nhỏ, thường đều "hú" Thành Tôn, anh rất vui vẻ, hạnh phúc gặp lại bạn và thường hẹn nhau chiêu đãi cà phê hay "lai rai ba sợi". Anh rất hào phóng với tất cả anh em văn nghệ, dù có "hao".

Phan Xuân Sinh từ Houston qua gọi Thành Tôn, Đức Phổ từ Georgia qua gọi Thành Tôn, Luân Hoán, Hoàng Xuân Sơn, Nam Dao... từ Canada qua gọi Thành Tôn, Nguyễn Xuân Thiệp, Trần Doãn Nho từ Dallas qua gọi Thành Tôn, Nguyễn Thanh Châu (nhờ tôi) gọi Thành Tôn, Đông Nghi (nhờ tôi) gọi Thành Tôn, Phan Nguyên, Từ Hoài Tấn, Lữ Kiều, Hạ Đình Thao, từ VN qua Mỹ, cũng gọi Thành Tôn. 

Được ngồi cà phê hay "lai rai" với anh đều rất vui, đều nhận thấy cái thực lòng ở anh....Nghĩa là tiếng lành đồn xa...như ngày xưa bên Tàu, có ông Mạnh Thường Quân, ông là một người giàu có, lại có lòng nghĩa hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, văn cũng như võ trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn tân khách (theo wikipedia). Thành Tôn thì không giàu, anh đã về hưu, nhưng tấm lòng anh cũng na ná như vậy. Không biết Mạnh Thường Quân xưa có cầu cho được "tiếng" hay không, nhưng với Thành Tôn, tôi biết, anh chỉ mong mọi bạn bè "vui thôi mà" (lời Bùi Giáng).

Những ngày trước, khi nhóm năm người chúng tôi còn sinh hoạt, trước khi cà phê, thường lai rai ba sợi, ở quán Hợp hay đâu đó, rồi mới qua cà phê. Khi đã có chút hơi cay vào, Thành Tôn ăn nói cũng "lớn tiếng" lắm. Lớn tiếng chỉ thuần theo nghĩa đen, nghĩa là giọng anh còn rặt giọng Quảng Nam, nên anh nói thường to hơn người khác. Những lúc đó, anh vui kể chuyện, những giai thoại Bùi Giáng ở quê, ngày còn nhỏ. Bùi Giáng là lứa tuổi với cha anh, nhưng lại muốn kết bạn với anh. Rồi những "tật" của Bùi Giáng, trong đời thường và trong thơ văn, anh lại đọc mấy câu thơ của Bùi Giáng...Giọng Thành Tôn to, lớn, câu chuyện kể khá hấp dẫn khiến ai cũng muốn nghe...Nhiều người ngồi bàn bên, có thể không hiểu, tưởng là anh đang cải lộn. Nhưng không, đó là anh thể hiện tính ăn to nói lớn của người Quảng Nam thôi.

Anh hiền, rất hiền. Anh chơi với ai cũng được, chưa bao giờ làm mất lòng ai. Đã nhiều lần anh nói: "Chơi với bạn, mình chỉ nhìn vào cái tốt của bạn đó thôi." Nên anh hoàn toàn là bạn của tất cả anh em văn nghệ. 

Nhiều lúc ngồi với nhau cà phê hay "lai rai ba sợi", Thành Tôn kể về những ngày lính tráng của anh. 

Tôi đã nghe và xin ghi lại sau:

Chuyện đi lính của anh cũng rất hấp dẫn, hồi hộp và mang tính giai thoại.

Hồi đó khoảng những năm 1965, 66...Thành Tôn đang dạy học ở trường Phan Thanh Giản, Đà Nẵng. Đi dạy nhưng anh cư trú không ổn định, thường thay đổi địa chỉ nên Giấy Gọi Đi Thủ Đức theo lệnh Động Viên không đến tay anh. Một hôm xong buổi dạy ra về, thì anh gặp một toán cảnh sát đang đón đường hỏi giấy tờ quân dịch của thanh niên. Thành Tôn bị chận hỏi và bị "hốt" ngay, vì lứa tuổi anh đúng ra là phải bị động viên vào Thủ Đức khóa trước, sao còn ở ngoài đi dạy tà tà vậy. Anh bị đưa vào trại Nhập Ngũ số 1, để đi thụ huấn tân binh quân dịch, vì anh thuộc diện không tuân hành lệnh Tổng Động Viên.

Anh bị đưa vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, thụ huấn 9 tuần để ra làm tân binh, deuxieme cùi bắp (binh nhì). May nhờ có nhà văn Trần Phong Giao, lúc này làm Tổng Thơ Ký Tạp chí Văn, khi biết tin Thành Tôn "bị nạn", liền viết đơn lên Nha Động Viên Bộ Quốc Phòng, giải thích sự việc, là vì địa chỉ anh thay đổi nên không nhận được lệnh gọi đi Thủ Đức, chứ không phải anh trốn lính. Lúc này Nha Động Viên do Thiếu tướng Bùi Đình Đạm làm Tổng Giám Đốc, biết được nỗi oan ức của Thành Tôn, nên ra lệnh chuyển anh qua tiếp tục Khóa 2... Thủ Đức...Thế là Thành Tôn trở thành Sĩ Quan, và khi ra trường, xin về phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Tín. Thành Tôn làm ở đây đến tháng 3.1975.

Thành Tôn làm ở Khối CTCT/TK Quảng Tín, sau đó vì tính cần mẫn, thật thà và uy tín, rất được mọi người kính phục. 

Đại tá tiểu khu trưởng kiêm tỉnh trưởng Quảng Tín, biết anh, nên bổ nhiệm anh làm bí thư. Anh làm chức vụ này trong hai đời tỉnh trưởng...Với vị đại tá sau, có lần Thành Tôn, đã đập bàn cải lộn với xếp, và Thành Tôn tự xin phép rời khỏi chức vụ bí thư, với đơn xin sẽ làm việc ở bất kỳ đơn vị nào...Cuối cùng Thành Tôn trở về lại Khối CTCT/TK Quảng Tín.

Thời gian này, ngoài công việc là sĩ quan quân đội, Thành Tôn còn là người đứng ra phát hành sách cho các nhà xuất bản như Lá Bối, An Tiêm, Giữ Thơm Quê Mẹ...

Anh là người yêu sách, và là bạn với các chủ nhà xuất bản trên, anh đã đứng ra phát hành sách đến các tiệm sách ở Tam Kỳ,  Quảng Tín, Quảng Nam, Hội An, Đà Nẵng...nhiều khi ra đến tận Huế. Những chủ nhà xuất bản này đều tin cậy Thành Tôn.

Sau này, qua Mỹ, anh có gặp lại các ông Thanh Tuệ (chủ nhà xuất bản An Tiêm...từ Pháp qua, và bị bịnh mất ở Mỹ), ông Võ Thắng Tiết, chủ nhà xuất bản Lá Bối trước 1975, và Văn Nghệ ở Mỹ (Nam Cali). Tình thân của anh với ông Võ Thắng Tiết rất đậm đà. Những buổi cà phê của chúng tôi, đôi khi Thành Tôn mời ông Võ Thắng Tiết cùng tham dự. Nhưng sau, ông Tiết vốn là một tu sĩ Phật giáo, nên ông ít cà phê, ít la cà, nên những buổi cà phê với ông cũng ít dần. Tuy nhiên, khi ông Võ Thắng Tiết bịnh nằm ở bịnh viện viện Fountain Valley, thì Thành Tôn cũng rủ tôi và anh Phạm Phú Minh đến thăm...tình cảm rất chân thành. Sự liên lạc, thăm hỏi nhau với ông Võ Thắng Tiết, Thành Tôn vẫn giữ đến tận bây giờ

Đến nhà Thành Tôn, một căn Apt nhỏ, 1 phòng, cho hai vợ chồng. Nhà anh đúng là một thư viện sách. Ngoài sách ra, trên kệ cao, anh còn lập một bàn thờ, thờ ba người bạn văn quá cố, đã có một thời gắn bó với Thành Tôn. Đó là nhà thơ Bùi Giáng, nhà văn Võ Phiến và Họa sĩ Đinh Cường.


Chuyện tình.


Phải nói là chuyện vợ chồng của Thành Tôn và chị Phan Thị Trinh đã hơn sáu mươi năm qua, một tình yêu, một người yêu...suốt trong thời gian dài như vậy, không suy suyển. Trung Thành và Duy Nhất. Một và chỉ Một mà thôi. 

Chuyện này, nói thì dễ, nhưng thực hành rất khó, nhất là đàn ông ở tuổi thanh niên, trung niên...có chức có quyền một tí, lại là nhà thơ nổi tiếng nữa...ai cũng có chút tình ngoài luồng...Nhưng với Thành Tôn và Phan Thị Trinh thì đúng là một và chỉ một mà thôi.

Hai người yêu nhau từ ngày còn là học sinh, cùng lớp, cùng trường. Yêu nhau rồi lấy nhau và gắn bó với nhau suốt gần sáu mươi năm. Khi đi lính, chàng đóng ở một phương, Tam Kỳ, nàng làm công chức ở Đà Nẵng, nên chỉ gặp nhau cuối tuần hay một, hai tuần mới về thăm nhau một lần. Rồi đến ngày chàng đi cải tạo, chàng ở tù ròng rả suốt gần chín năm ngoài Bắc, còn nàng ở nhà lo làm ăn, nuôi con, nuôi chồng, cơm đùm cơm gói thăm nuôi. Mãi sau 9 năm xa cách, vợ chồng mới đoàn tụ. (theo Thành Tôn, những ngày đi tù ngoài bắc, đi đốn gỗ, anh bị cây ngã đè bị thương ở đầu và tay, nên bây giờ tay anh viết bị run, đầu anh không tập trung, nhớ cái được cái mất, nên anh không làm thơ nữa là vì vậy).

Anh chị có ba người con, hai gái, một trai. Cô con gái đầu tốt nghiệp bác sĩ Nhi Khoa thuộc loại xuất sắc ở VN, và đi tu nghiệp ở Pháp, với những công trình nghiên cứu lâm sàng, được giới y khoa Pháp công nhận và được báo chí Pháp viết bài khen ngợi. 

Hai người con còn lại cũng tốt nghiệp đại học và hiện đang có công việc tốt, hiện cư ngụ gần anh (CA).

Viết bài này tôi muốn không đề cập đến chuyện Thơ, nhưng khi nói đến tình yêu, thì cũng nên nói chuyện thơ của chàng một tí.

Bài thơ Nói Với Cô Bé Ngồi Quán của Thành Tôn, trong tập Thắp Tình như sau:


Vào đây, ghế quạnh, khuya người 

Quán như địa phủ, nhạc đời nhân gian 

Quầy trơ, mắt bé ngỡ ngàng 

Thuyền ai đổ bến, lòng nàng bâng khuâng


Hồn ta trải gió đầy sân 

Tình ta, mây cũng mấy lần thu nao 

Vào đây bàn nhẵn, câu chào 

Quen như thân thể, lạ nào chén ly


Đời nhau, khói thuốc quên đi 

Bên tai cổ nhạc lầm lỳ canh tân 

Trên kia dáng bé tần ngần 

Lời yêu chậm nói, tình gần tay trao

 

Vào đây đèn đủ hanh hao 

Bóng ai theo đến kẻ nào quay lui 

Cúi đời trên chén ly, khuya 

Mắt nhau một hướng, tình chia mấy trùng

 

Ngồi thầm, góc quán mông lung 

Xa nghe lời kẻ, gần chùng dáng ai 

Vào đây nhạc đĩa đầy vai 

Vòng quay nhịp lặp, kim mài giọng quen

 

Mòn hao sợi tóc trăm năm 

Khuya, mưng máu chậm. Tình, bầm tim mau 

Ngậm lòng, quán vắng, ơn nhau 

Ly trơ ghế nóng, bé chau mắt nhìn

  

Vào đây như một đức tin 

Khói tan đốm thuốc, đời vin tay nào 

Miệng cười kín nụ lao đao 

Tình chia nghĩa sớt, câu chào riêng ai 

 

Trách gì ý lỡ, lời sai 

Cho nhau góc quán đêm dài dung thân 

Thôi em trả đó tình gần 

Ta xin bóng chiếc, đời cần nhau, đâu ?

 

Vào đây, ghế quạnh, khuya nhàu 

Tình như cổ tích đời sau kể thầm.


Bài thơ này, theo như chị Phan Thị Trinh,  (chị Thành Tôn) nói là, anh làm cho một người con gái nữ sinh Tam Kỳ, sắc nước hương trời thời đó, là cô T. Cô vừa là nữ sinh, vừa là con chủ quán cà phê và Mì LK. Cô này đẹp nổi tiếng ở TK. Cô có đôi mắt đẹp như thuyền, đôi môi không thoa son mà luôn đỏ như son. Cô là "cây đinh" ở đây, nên nhiều nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, sĩ quan quân đội đi hành quân về Tam Kỳ, thường ghé quán cô ăn mì, uống cà phê, để được diện kiến dung nhan cô. 

Nhưng theo Thành Tôn, là không phải, đây chỉ là hình ảnh cô bé bán quán cà phê ở gần Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Tín, nơi anh làm việc  thôi. Đó là những buổi trực khuya cùng bạn lính, rủ nhau đi cà phê, vào ngồi quán này. Cái rung động với cô bé ngồi quán trong bài thơ, chỉ là rung động tự nhiên về vẻ đẹp của thiếu nữ...Chứ không phải cho một người con gái nào hiện thực cả...

Đây là một bài lục bát hay, rất hay, theo tôi. Thành Tôn dùng từ lạ, ý lạ (ghế quạnh, khuya người, nhạc đời nhân gian, quày trơ, trải gió, đủ hanh hao, cúi đời, mưng máu chậm, bừng tim gan, khuya nhàu...). Cách chấm câu, dấu phếch, rất mới (vào những năm 1968 - 1969...mà dùng từ như thế này thì quá mới). 

Tôi rất thích bài thơ này, và có thể nói rằng, đây là một trong những bài lục bát hay nhất VN.


*


Dài dòng quá cũng đến lúc dừng lại. Tôi xin kết ở đây.

Chúc mừng nhà thơ Thành Tôn, nay là thời điểm cuối tháng 8 - 2019, anh suýt soát tám mươi, qua một trận bịnh trầm kha, anh đã khỏe lại, da thịt anh hồng hào, lời nói sang sảng, đi đứng vững vàng, tai còn nghe rất rõ, mắt còn nhìn rất tinh tường...

Anh lại (còn) làm việc chuyên cần, là hằng ngày, đọc các Web văn nghệ, tin tức, sách, và Facebook của bạn bè, (dù anh không có Fb), nên có tin gì của anh em văn nghệ, anh đều biết...Rồi anh bỏ thời gian scan, copy hàng chục ngàn trang sách. Tất cả những số của tạp chí Thế Kỷ 21, Hợp Lưu đều do một tay anh làm, rồi chuyển cho Nguyễn Vũ bỏ lên ebooks...

Anh cũng vì thương bạn bè, nên anh đã tự thực hiện những tác phẩm về Thơ của bạn, như tập thơ Con Cá Lưu Vong của Đạm Thạch, Thơ Trần Văn Nam...Những bạn văn ở xa thích đọc sách, như Lưu Vỹ Bửu ở OH, bạn văn cùng quê, anh đã scan và đóng thành tập cuốn "Những truyện ngắn hay nhất quê hương ta (cả trên 6, 7 trăm trang)" do Nguyễn Đông Ngạc sưu tầm và xuất bản, gởi biếu Lưu Vỹ Bửu. Huy Tưởng tận bên Úc cũng nhận được sách do Thành Tôn thực hiện và gởi biếu. (Rất nhiều bạn văn được anh biếu sách...không kể hết được.)

Hay là sách của tôi, tôi nhờ anh là anh gật đầu đồng ý giúp ngay, anh scan cả 5 tác phẩm, truyện ngắn, truyện dài, thơ, của tôi lên cả hơn ngàn trang...để đưa lên ebooks, cực thế mà anh vẫn vui vẻ làm... 

Xin anh chân cứng đá mềm, sức khỏe mãi, để vui cùng với tình bạn văn, cùng sách vở, và cùng với  gia đình anh, vợ, con, cháu anh...

Xin nói thêm chút xíu, là anh có những đứa con rất ngoan, rất hiếu thảo, nhất là có cô con dâu rất tốt, rất thương anh. Cô con dâu  thường đem đồ ăn, rượu, bia, đến cho ba uống trong những buổi chiều. Nhiều buổi chiều, nhìn thấy anh ngồi uống một mình, buồn, nên cô con dâu cũng xin cụng ly với ba, vài ngụm...để ba vui. 

Mong anh sẽ còn thời gian...mười, hai mươi, ba mươi năm vui nữa, nhé anh. 


Trần Yên Hòa



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.