Hôm nay,  

Hiệu đính lại những nguồn tin không chính xác về cái chết của Đại Tá Phạm Văn Phúc (nguyên Tỉnh Trưởng Tỉnh Long Khánh)

01/04/201907:41:00(Xem: 9522)

Tháng Tư Đen (30/4/1975 – 30/4/2019)

 

Hiệu đính lại những nguồn tin không chính xác
về cái chết của Đại Tá Phạm Văn Phúc
(nguyên Tỉnh Trưởng Tỉnh Long Khánh)

                                        Lê Đình Cai ghi nhận.

  

Công trình nghiên cứu Sử học với tựa đề “Chiến dịch Hồ Chí Minh và sự sụp đổ toàn bộ của miền Nam (từ 9/4 đến 30/4/1975)” của tôi viết, đã được đăng nhiều kỳ trên các tờ báo ở Hải Ngoại vào dịp 30/4 năm 2006. Trong bài viết này có đoạn ghi lại: “Để cứu Biên Hoà và nhất là căn cứ Long Bình, nơi còn dự trữ nhiều quân dụng, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III đã ra lệnh rút quân khỏi Xuân Lộc ngày 20/4/1975. Trong cuộc rút quân này, đại tá Phúc, Tỉnh Trưởng Long Khánh, đã đi đoạn hậu để bảo vệ cho đoàn di tản nhưng không may ông đụng phải mìn của Việt Cộng và tử trận”. (Đoạn văn này được trích lại từ tạp chí Ý Dân số 313 ấn hành nhân ngày 30/4/2006, từ trang 134… và những số báo kế tiếp, do luật sư Nguyễn Vạn Bình làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, đã gởi cho tôi bản copy này. Xin chân thành cảm tạ luật sư Bình đã lưu giữ số báo này từ hơn 13 năm nay để tôi có được tư liệu hầu đính chính lại sự kiện này).
 

Sự kiện cần được hiệu đính ở đây:

1. Đại Tá Phạm Văn Phúc đã không tử trận ngày 20/4/1975.

2. Trung Tá Lê Quang Đình, Tiểu Khu Phó Long Khánh mới là người tử trận.

*

Khi biên soạn lại “Chiến dịch Hồ Chí Minh và sự sụp đỗ toàn bộ của miền Nam”, người viết bài này không phải là nhân chứng trực tiếp mà chỉ là người nghiên cứu tổng hợp những tài liệu sách vở liên hệ để đúc kết lại. Khi đề cập đến cái chết của Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng Long Khánh, trong cuộc lui quân ngày 20/4/1975, người viết đã tham khảo nhiều nguồn sử liệu khác nhau từ báo chí của Việt Nam Cộng Hoà (báo Chính Luận, Độc Lập, Đối Diện…); của chính quyền Cộng Sản Hà Nội (báo Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân…), một số sách đã xuất bản như “The Fall and Liberation of Saigon” của Tiziano Terzani, do nxb St Martin S. Press, New York, 1977; “55 days, The Fall of South Vietnam” của Alan Dawson, nxb Prentice Hall, New Jersey, 1977; “L’Adieu à Saigon” của Jean Laterguy, nxb Presse de la Cité, Paris, 1975… Cũng tham khảo một số sách báo viết về sự sụp đổ của miền Nam do các tác giả người Việt (trên các tờ báo và tạp chí tiếng Việt ở hải ngoại cũng có đề cập đến cái chết của Đại Tá Phúc). Nhưng tài liệu mà tôi chú ý nhất là sách “Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hoà” của giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ, do nxb Tủ Sách Nghiên Cứu Sử Địa, Canada, 1979. Ở trang 328 của cuốn sách này, giáo sư Ngữ đã xác nhận cái chết của Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh Trưởng Long Khánh, trong cuộc lui quân ngày 20/4/1975.

Với chúng tôi, những người chuyên môn về ngành Sử, khi áp dụng phương pháp cẩn án ngoại (external study) và cẩn án nội (internal study) mà thấy tác giả là người đáng tin cậy, thì tài liệu của họ viết ra mình có thể quy chiếu và trích dẫn được. Ở đây, tác giả Nguyễn Khắc Ngữ đã được đào tạo chuyên ngành Sử học tại đại học Sư Phạm Sài Gòn cùng thời với giáo sư Sử học Phạm Cao Dương, là lớp đàn anh của chúng tôi, nên giá trị tin cậy đã được đảm bảo. Cuốn sách của ông xuất bản năm 1979 và từ đó cho đến khi bài báo của tôi xuất hiện 2006, thời gian gần 27 năm, tôi chưa đọc được bất cứ tài liệu nào đính chính cho sự việc này.

May mắn thay trong những ngày cận Tết Kỷ Hợi (2019), tôi nhận được một cuộc điện thoại từ anh Phạm Đức Thịnh, tốt nghiệp khoá II, 1971 trường đại học Chiến Tranh Chính Trị tại Đà Lạt. Anh trải qua nhiều nhiệm sở trong quân đội và những năm tháng cuối cùng của miền Nam, anh đảm trách chức vụ Trưởng Ty Thông Tin Chiêu Hồi ở tỉnh Kiên Giang thay thế người tiền nhiệm là anh Khương Hữu Điểu. Sau 30/4/1975, anh đã phải trải qua hơn 10 năm tù trong các trại cải tạo của Cộng Sản. Anh và gia đình hiện định cư tại Denver (Colorado) kể từ tháng 3 năm 1993.

Qua cuộc điện đàm này và những dịp đàm đạo kế tiếp, tôi được cả anh chị Thịnh kể lại cho những ngày cuối cùng ở Long Khánh và lưu ý tôi về bài báo viết không đúng với cái chết của Đại Tá Phúc, Tỉnh Trưởng Long Khánh. Tôi rất mừng, qua anh chị Thịnh tôi có cơ hội tiếp xúc với những nguồn tin đáng tin cậy để được dịp hiệu đính lại những sai sót trong bài biên khảo của mình.

Trước hết, trong email gởi ngày 25/1/2019, chị Phạm Đức Thịnh (nhũ danh Lê Phương Thanh) đã cung cấp cho tôi bài viết của ký giả Vũ Ánh báo Người Việt tại Nam Cali (đăng lại trên Hưng Việt ngày 22/9/2006 dưới chủ đề “Những tin tức cuối cùng về Đại Tá Phạm Văn Phúc”) với nội dung như sau:

 

Trong số báo Thứ Năm tuần trước, tôi có cung cấp một số tin tức về Đại Tá Phạm Văn Phúc nguyên tỉnh trưởng Long Khánh để giúp Giáo Sư Sử Học Lê Đình Cai đối chiếu một vài điểm còn lấn cấn trong khi ông viết một bộ sách về chiến tranh Việt Nam. Sau khi bài báo tới tay các độc giả và được đưa lên trang nhà của báo Người Việt, có thêm rất nhiều độc giả gởi thư, e-mail cung cấp thêm những tin tức cho biết Đại Tá Phạm Văn Phúc không tử trận khi ông cùng ban tham mưu tiểu khu rút ra khỏi Long Khánh ngày 20 Tháng Tư năm 1975.


Chẳng hạn như thư e-mail của ông Nhất Tâm Lê Bá Phùng ngày 6 Tháng Chín năm 2006 cho biết nhiều chi tiết quý báu:


“Tôi có thể xác nhận Đại Tá Phạm Văn Phúc đã không tử trận ngày 20 Tháng Tư năm 1975... Đại Tá Phúc sau khi ở trại Suối Máu Biên Hòa được chuyển lên trại K-3 Giaray Long Khánh cùng một số sĩ quan cấp tá trong đó có Đại Tá Nguyễn Sùng (tiếp vận) và ông Cao Văn Tường bộ trưởng phủ thủ tướng dưới thời Tướng Trần Thiện Khiêm. Tới Tháng Mười Một năm 1976, Đại Tá Phạm Văn Phúc cùng một số anh em tù cải tạo khác, trong đó có tôi, được chuyển về trại Thủ Đức. (Cộng Sản đặt tên các trại này là trại Thủ Đức nhưng không nằm ở quận Thủ Đức mà ở rải tác khắp nơi thuộc tỉnh Bình Tuy. Họ xây dựng các căn cứ hỏa lực cũ 5 và 6 của Việt Nam Cộng Hòa thành những trại lao động khổ sai và là trại chuyển tiếp để từ đó tù nhân được chuyển ra các tỉnh phía Bắc Việt Nam và đặt tên có các trại này là các trại Thủ Đức - V.A.)


Đêm 1 Tháng Mười Hai năm 1976, các tù nhân trại Thủ Đức được đưa ra cảng Newport và bị đưa xuống tàu ra Hải Phòng. Từ trại Thủ Đức xuống tàu, chúng tôi đều bị xiềng tay cứ hai người một với nhau. Tôi chung xiềng với Đại Tá Phạm Văn Phúc, số chìa khóa là 304. Giám Mục Nguyễn Văn Thuận (sau này là hồng y) chung xiềng với Đại Tá Lý Bá Phẩm (cựu tỉnh trưởng Khánh Hòa, sau là tỉnh trưởng An Giang - V.A.) Chuyến đi đó tổng cộng có hơn một ngàn tù nhân. Đến Hải Phòng thì tôi và Đại Tá Phúc được đưa vào nhóm đi Lào Kay. Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận và Đại Tá Lý Bá Phẩm đi trại Sơn Tây. Đại Tá Phúc và tôi luôn luôn sống chung buồng giam ở Lao Kay cho đến Tháng Năm năm 1978 thì được chuyển về trại Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh. Tháng Ba năm 1979 tôi được chuyển ra trại Mễ cho gần nghĩa địa vì sức khỏe của tôi lúc đó quá yếu và theo sự chẩn đoán của bác sĩ tôi không sống được bao lâu nữa. Từ đó, tôi xa Đại Tá Phúc vì ông vẫn còn ở trại Nam Hà để vác đá, đào chạc.


Thân mến cùng quý bạn và giáo sư sử học.

 

(Nhất Tâm Lê Bá Phùng)

 

Ngoài ra, nhà báo Vũ Ánh cũng có nêu thêm vài email khác của ông Hùng Nguyễn, Trâu Nam Bộ PNV, Kiệt Vương, cũng xác nhận là Đại Tá Phúc bị bắt rồi đi cải tạo chứ không bị tử trận như một số nguồn tin đã loan. Đặc biệt, nhà báo Vũ Ánh đã nhắc đến ông Hà Nam Anh và thiếu tá Hội trong ban tham mưu của tỉnh Long Khánh cũng đều xác nhận Đại Tá Phúc đã sang định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO nhưng sau đó về lại Việt Nam và đã từ trần ở quê nhà.

Qua những nhân chứng sống rất đáng tin cậy cùng ở trong trại tù với Đại Tá Phúc, nhất là ông Lê Bá Phùng nguyên là Trưởng Ty Chiêu Hồi tỉnh Kiến Phong mà người viết có mối liên hệ đồng chí một thời, thì sự việc giáo sư Lê Khắc Ngữ nêu lên về cái chết của Đại Tá Phúc trong việc rút quân khỏi Long Khánh vào 20/4/1975 là không đúng. Thế thì vị Sỹ quan cao cấp nào của tỉnh Long Khánh đã bị thương, bị Việt Cộng bắt rồi giết chết trong thời gian đó là ai mà mọi người đã lầm tưởng là Đại Tá Tỉnh Trưởng Phạm Văn Phúc? Đó là Trung Tá Lê Quang Đình, Tiểu khu Phó Tiểu khu Long Khánh. Nhiều chi tiết về cái chết của Trung Tá Đình đã được thân nhân kể lại. Chị Lê Phương Thanh (vợ anh Phạm Đức Thịnh) là em gái của Trung Tá Lê Quanh Đình nên người viết được nghe chính chị kể lại trong email gởi đến ngày 27/1/2019 lúc 6:44pm:

 

Trung Tá Lê Quang Đình .

sinh năm 1934 ,Tai Huyện Cẩm Giang .Quận Nam Sách Tỉnh Hai Dương .

di cư váo Nam 1954 tình nguyện vào trường võ Bị Quôc gia việt nam tại Đalat

tốt nghiệp phục vụ binh chủng Pháo Binh .

     quận trưởng quận châu thành ,tỉnh Bình dương .

     Quận trưởng quận Sông Ông Đốc tỉnh Cà Mau

     làm việc trong Phái Đoàn Uỷ Ban Quân Sự Bốn  Bên Tại Tân Sơn Nhất

     Chức vụ cuối cùng Trung Tá tiểu Khu Phó tiểu Khu Long Khánh .

                               Gia cảnh .

vợ và bốn con 3 gái và 1 trai  có nhà tại quận Châu Thành Tỉnh Bình Dương .

khi nghe ông đã tử trận bà Đình liên tục đi tìm hài cốt nhưng không thấy ,trong khi đó chính quyền cộng sản bức bách gia đình bà ra khỏi nhà ,chỉ được quyền mang vật dụng cá nhân . vợ và các con ông  dắt díu nhau về ngã tư Phú Lân Chợ Lớn ( trong Hẻm nhỏ) mua căn nhà nhỏ để sống ,

    Buổi sáng chị  tráng Bánh cuốn bán ở đầu hẻm ..các cháu gái tủ bán thuốc lá ….. cuộc sống khá cơ cực ,trong bối cảnh đất nước bị mất , không phải chỉ riêng chị ,tất cả vợ con các sĩ quan đều vậy ! cho nên cũng không có phương tiện đi tìm hài cốt của chồng .

   Mấy tháng sau dân sài gòn bi bức bách phải đi vùng kinh tế mới ,tình cờ Bà Ngô thị Kim Hoàng và chồng Ông Nguyễn Thế Mỹ đi ngang qua khu rừng cao su . ông dừng xe lại để đi tiểu

thì nhặt được tấm thẻ bài ( Lê Quang Đình )  ông Mỹ đem ra đưa cho vợ , chị Hoàng đọc họ LÊ QUANG thì đem về cho mẹ của tôi (lúc đó mẹ tôi còn Sống )  Xem gởi đính kèm .

   Chúng tôi vẫn nghĩ rằng hương linh của Tr /Tá Đình khiến cho người tìm được hài cốt của anh ,có liên quan đến gia tộc họ lê .

    Bà Quả Phụ Lê Quang Đình ( khuê danh Hoàng Thị Lợi ) đã nhận diện đúng cốt của anh ,bởi những di vật còn sót lại ,ngoài giấy tờ chứng minh .

   khi hoả táng lại để vào chùa tại Phú Lâm gần thân phụ của cố T/T Lê quang Đình ,là cụ ông Lê quang Hoà .

    Cuối tuần này anh thịnh qua tôi sẽ gới tiếp những tin tức mà chúng tôi tìm hiểu được

                                          Thân Kính 

                              Lê Phương Thanh

 

Riêng về cái chết của Trung Tá Lê Quang Đình có nhiều dư luận cho rằng Đại Tá Phúc có âm mưu mượn tay Việt Cộng để đẩy vị Trung Tá Tiểu khu Phó vào chỗ chết. Để làm sang tỏ điều này và cũng để minh oan cho Đại Tá Phúc tôi xin đăng nguyên văn email của anh Phạm Đức Thịnh dưới nhan đề “Cuộc nói chuyện với Đại Tá Phúc tại trại tù Nam Hà (1979)”, do chị Lê Phương Thanh chuyển qua email đề ngày 2/2/2019 lúc 7:04am. Nguyên văn như sau:

 

Cuộc nói chuyện với Đại Tá Phúc tại Trại tú Nam Hà năm ( 1979 )

Tôi là Trung Uý  Phạm Đức Thịnh Không biết nhiều về Đ/tá Phúc trong suốt thời gian tôi còn ở Quân Ngũ

  Sở dĩ tôi biết về Đ/T Phúc vĩ tôi có người Anh vợ là TR/Tá Lê quang Đình Tiểu Khu Phó tiểu Khu Phó tiểu Khu Long Khánh ,Làm việc Dưới Quyền của Đ/T Phạm Văn Phúc ,va Anh Tôi Đã tử Trận vào những  ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến .

  Những tưởng việc này sẽ theo thời gian sẽ đi vào quên lãng , khi tôi đi vào tù của cộng sản ….

      Đến  khi tôi vào tình cờ gặp một người trong binh chủng Biệt Động Quân ,cùng trại tù anh ta đã kể lại trân đánh  Xuân Lộc  (  chức vụ của Anh là tiếp vận của tiểu khu Long Khánh : P 4 )

  tôi rất mừng và để tâm lắng nghe ,ví nghĩ rằng ,sẽ có những điều mình cần biết .

  • Khi Anh Ninh (  Sĩ quan tiếp vận ) bắt đầu kể ….tới đoạn ttrận  đánh diễn ra khốc liệt ,khi lữ đoàn Nhẩy dù vào tiếp viện cho tiểu khu Long Khánh .

  Lúc đó Tr/Tá Lê Quang Đình  được lệnh đặt bộ chĩ huy Hành Quân Tại Điểm do Đ/T Phúc Chỉ  định ,đền lúc này tình hình khá  nặng ...Đ/T ra lệnh cho Tr/Tá Đình  và bộ chỉ huy  nhẹ rút  .

            Nhưng khi ra lệnh , Đại Tá Phúc lại dùng máy truyền tin và nói bạch văn  ( đây là vấn đề sai lầm to lớn khi đang  hành quân ,vì địch quân có thể nghe  ) Thật đúng , công sản đã bắt được tin nay ,ra lệnh phục kích khi Tr/tá Đình lui quân ,khi Đoàn xe của Tr/Tá đến địa điểm bị phục kích Cộng sản  đã bắn B40 vào xe của  ông khiến cho Ông Đình bị thương Nặng .

           cộng sản đã bắt ông đem vào bìà rừng  cao su cách đó độ mấy thước .

sau đó thấy không thể khai thác  được gì ! vì ông bị thương khá nặng … sau đó cộng sản đã hạ sát “ (  Đây là lời kể của Người tài xế lái xe cho Tr/Tá Đình may mắn còn sông Sót ,  tình cờ tôi đã gặp lại anh Tài xế này , gặp khi ra khỏi nhà tù .)

          Về Tin tức bảo rằng ĐT Phúc đã chết vào ngày 20/4 .tôi xác nhận Đại Tá phúc không chết ,tôi gặp ông ờ tại Phòng 3 Trại Nam Hà .( năm 1979 )

          vào một ngày trại Nam hà không đi lao động ,các tù nhân được phép ra sân nấu nướng tự do , tôi đã  đến gần khu của các Đại Tá sinh hoạt để hỏi :

         Ông Phúc đang nấu nước sôi , tôi hỏi ông ;

-       Thưa Anh ,có phải anh là Anh Sáu Phúc Không ? ( Anh Sau Có Nghĩa là Đại Tá)  ông quay lại nhìn  tôi và gật đầu .

        Tôi xin tự giới thiệu với anh : tôi là em rể  anh Đình  đây ,

        Tôi muốn biết sự thực vế những  ngày cuối cùng tại mặt trận Long Khánh ,dù răng anh tôi chết đã lâu , vì tôi nghĩ rằng sự thật của lịch sử phải trả về cho lịch  sử ,tôi không có ý gì khác : vậy anh sáu đừng e ngại gì .

        Ngưng Một giây lát , nhìn tôi ,Ông Phúc Gật đầu và nói :   

-       Như các anh đã  biết trận Xuân Lộc thế nào .  Tình hình trong lúc đó quá nặng nề  với tiểu khu ,nên tôi  đã ra lệnh cho Bộ chỉ huy của Tr/Tá Đình rút ,nhưng tôi có một sai lầm quá lớn ,trong lúc hấp tấp  tôi đã nói bạch văn trên máy vô tuyến ,và tôi nghĩ răng . Đây là nguyên nhân gây ra cái chết của tr/tá Đình , mà sau này có nguồn tin nói răng tôi ganh tị với  Tr/ Tá Đình nên đã hại Tr/Tá Đình!

-       Tôi Xác Nhận điều này với anh , đó là một lỗi lớn của một sĩ quan cao cấp như tôi  ,chứ tôi không có ý hại ông Đình .bào răng đó là lỗi ,tôi xin nhận,

-       Nếu bảo rằng đó là tội .

-       Tôi không có tội .

-       Người bạn bên canh ĐT Phúc quay lại nói .

-       Thôi , không có gì , chuyện sai lầm trong lúc hành quân ,đó là chuyện bình thường ,huống chi chuyện này sẩy ra quá lâu  ( xin lôi tôi không nhớ tên ông Đ/T này )

-       Thấy như vậy đã đủ ,tôi đứng dậy chào ông và cám ơn ông .

-                      

-       Thưa Anh Cai ,

-       Tôi vừa tường thuật cuộc gặp gỡ với ông Phúc trong  trại tù Nam Hà ra mà tôi ghi lại

Phạm Đức Thịnh

 

*

Những sự kiện lịch sử được ghi nhận lại theo nhân chứng trực tiếp thường có độ chính xác cao, nhất là khi nhân chứng ấy đáp ứng các tiêu chuẩn của phép cẩn án ngoại và cẩn án nội của ngành sử học. Các tác phẩm sử học thường được biên soạn bởi các nhà chép Sử chuyên nghiệp, độ khả tín bao giờ cũng rất cao. Tuy nhiên, vì không phải là nhân chứng trực tiếp, các nhà biên soạn đôi lúc ghi nhận không đúng sự thật lịch sử. Vì vậy, việc hiệu đính buộc phải có khi nhiều nhân chứng đều xác nhận lại cùng một sự việc xảy ra.

Tôi cảm thấy mình có được may mắn để hiệu đính lại một sử liệu không đúng trong việc ghi chép lại “Cuộc lui quân của Bộ Chỉ Huy Tiểu khu Long Khánh vào ngày 20/4/1975”. Đại Tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng Long Khánh, không tử trận trong dịp này mà người bị Việt Cộng phục kích bắn bị thương, bị bắt, rồi giết chết sau đó là Trung Tá Lê Quang Đình, Tiểu khu Phó của Đại Tá Phúc.

Xin chân thành cảm ơn anh chị Phạm Đức Thịnh – Lê Phương Thanh đã hết lòng giúp đỡ cho người viết trong công việc hiệu đính lại điều sai sót này.

Kính chúc quý độc giả một mùa Xuân an khang và mọi điều tốt lành.

 

Những ngày vào Xuân Kỷ Hợi 2019

Lê Đình Cai



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.

LTS: Mời quý vị nghe bài phát biểu của Dân Biểu Liên Bang Derek Trần tại Hạ Viện Hoa Kỳ sáng thứ Ba 29 tháng Tư, 2025 về Dấu Mốc 50 Năm Tháng Tư Đen.



***
Kính thưa Ngài Chủ Tịch Hạ Viện, 

Hôm nay tôi xin được phép phát biểu trong vài phút để chia sẻ một điều rất quan trọng đối với cộng đồng người Việt hải ngoại.

Tháng Tư Đen – không chỉ là một ngày buồn trong lịch sử, mà còn là dấu mốc nhắc nhở chúng ta về một ngày tang thương, khi chúng ta mất tất cả – mái ấm, quê hương, cuộc sống, và cả tương lai ở mảnh đất mà ta từng gọi là tổ quốc.

Cách đây 50 năm, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam rơi vào tay chế độ cộng sản. Khi đó, Mỹ đã di tản khoảng 6.000 người, bao gồm cả người Mỹ và người Việt, đến nơi an toàn. Rồi hàng trăm ngàn người Việt khác cũng lần lượt vượt biển ra đi, không biết phía trước là gì, chỉ biết phải rời đi để tìm sự sống.

Những người còn ở lại đã phải chịu cảnh sống ngày càng khắc nghiệt dưới chế độ cộng sản. Nhiều người bị đưa vào trại cải tạo – không chỉ mất nhà cửa, mà mất cả tự do, nhân phẩm, và không ít người mất luôn cả mạng sống.

Đây là một ngày đau buồn. Một ngày để chúng ta tưởng niệm, suy ngẫm, và để nhìn lại tất cả những gì đã mất.

Có hơn 58.000 lính Mỹ và hơn 250.000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Những người này đã chiến đấu và ngã xuống vì tự do. Họ xứng đáng được chúng ta biết ơn mãi mãi. Chúng ta tưởng niệm không chỉ những người lính, mà còn hàng triệu người dân vô tội đã chết trong chiến tranh, những người bị đàn áp sau ngày 30 tháng 4, và những người bỏ mạng trên biển trong hành trình vượt thoát.

Chúng ta có trách nhiệm sống xứng đáng với sự hy sinh của họ — bằng cách sống trọn vẹn và sống có ý nghĩa trong cuộc đời mới này.

Tôi là một trong hàng trăm ngàn người Mỹ gốc Việt được sinh ra trong những gia đình tị nạn – những người cha, người mẹ ra đi tay trắng, chỉ mang theo niềm hy vọng. Nhưng họ không để hành trình khổ cực ấy định nghĩa cuộc đời mình ở Mỹ. Họ xây dựng cộng đồng mạnh mẽ, thành công, và luôn giữ gìn bản sắc, lịch sử dân tộc.



Và hôm nay, sau 50 năm, chúng ta không chỉ tưởng niệm mà còn tự hào về những gì cộng đồng người Việt đã làm được. Từ tro tàn chiến tranh, chúng ta đã đứng dậy và vươn lên.

Chúng ta có những người gốc Việt làm tướng, đô đốc trong quân đội Mỹ, có nhà khoa học đoạt giải thưởng lớn, doanh nhân thành công, giáo sư, bác sĩ, nghệ sĩ – ở mọi lĩnh vực. Từ người tị nạn, chúng ta đã viết nên câu chuyện thành công chỉ trong vòng năm mươi năm.

Nhiều người trong số họ là con em của thuyền nhân – hoặc chính là những người vượt biển. Họ là minh chứng sống động cho tinh thần không chịu khuất phục, không ngừng vươn lên của người Việt.

Riêng tôi, là người Mỹ gốc Việt đầu tiên đại diện cho cộng đồng Little Saigon ở Quận Cam trong Quốc Hội. Tôi rất vinh dự và cảm thấy trách nhiệm nặng nề khi mang theo câu chuyện lịch sử của chúng ta. Little Saigon – nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất thế giới – là biểu tượng sống động cho nghị lực, cho hy vọng, và cho tinh thần vượt khó.

Tôi nối bước những người đi trước – những lãnh đạo người Việt ở California và khắp nước Mỹ – những người đã mở đường để thế hệ chúng tôi có thể tiếp bước. Tôi là người thứ ba gốc Việt được bầu vào Quốc hội, sau Dân biểu Joseph Cao ở Louisiana và Nữ dân biểu Stephanie Murphy ở Florida. Tôi không quên rằng mình đang tiếp nối di sản mà bao người đã hy sinh để giữ gìn.

Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta.

Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do.

Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.

Xin cảm ơn quý vị, tôi xin kết thúc phần phát biểu.

Derek Trần

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.